Contact

Contact Us: chu.duong@gmail.com

7/23/2011

HỘI DƯỢC SĨ VN TẠI HOA KỲ

Hội Dược    Việt Nam tại Hoa Kỳ là hội Dược Sĩ đầu tiên được thành lập tăi California, USA.Hiện nay anh Nguyễn Thúc Mẫn là Chủ Tịch của Hội
Hội Dược Sĩ Việt nam tại Hoa kỳ đã được thành lập vào tháng 8 năm 1980, trong một buổi họp, được tổ chức tại Harbor College, Torrance, California, của gần 200 Dược Sĩ Việt nam mới tới định cư tại Hoa kỳ, với sự hiện diện của các cựu Giáo sư Đại Học Dược  Khoa Saigon
Hội đã được thành lập nhằm hai mục đích chính:
Phát triển tinh thần đoàn kết và tương thân tương ái giữa các Dược sĩ Việt nam tại Hoa kỳ, tạo sự liên lạc giữa các Cộng đồng Dược sĩ Việt nam tại các Quốc gia khác: Pháp, Gia nã đại v.v.., tìm cách giúp đỡ các Dược sĩ Việt nam còn ở tại các trại tị nạn Đông nam Á.
Hướng dẫn Dược sĩ Việt nam đi học lại lấy bằng Dược sĩ tại Hoa kỳ hay thi lấy bằng hành nghề Chuyên viên Thí nghiệm Y khoa, hoặc những ngành khoa học khác: Dược học, Hoá học, Vi trùng học v.v.   
Chủ tịch đầu tiên là Giáo sư Tô Đồng .
Chủ tịch hiện nay là DS Nuyễn Thúc Mẫn .
Mời quý Anh Chị vào trang web dưới đây của HDSVN taị Hoa Kỳ để đọc những bài vở chuyên môn, văn nghệ, du lịch của quý vị Giáo Sư và quý Anh Chị DS Việt Nam .

7/08/2011

HỒ LÔ BÁ , FENUGREEK hay METHI

Fenugreek
Hồ lô bá (Fenugreek)
              Gia vị hay Vị thuốc ?
                                                          DS Trần Việt Hưng
 
Tên Hồ lô ba ( do nguồn gốc từ Trung dược) và Fenugreek có phần xa lạ với đa số người Việt trong và ngoài nước, nhưng thật ra rất quen thuộc với những bà nội trợ hay dùng đến bột 'cà ri'. Tại nhiều nơi trên thế giới, Fenugreek không những được trồng để lấy hạt làm gia vị, nhưng còn được dùng làm rau và làm thuốc trị bệnh. Cây cũng được trồng thử tại một số địa phương tại Việt Nam
.
   
Fenugreek được xem là một trong những cây đầu tiên được nhân loại trồng..cây đã được trồng tại vùng thung lũng sông Nile tứ 1000 năm truớc Tây lịch. Các văn bản tìm được trong các ngôi cổ mộ Ai cập đã mô tả cách nấu nướng fenugreek khi dùng làm thực phẩm và cách chế biến cây để làm thuốc (trị nóng sốt). Hạt fenugreek khô đã được tìm thấy trong mộ của Tutankhamen. Hạt cháy khô tìm được tại Tell Halal (Iraq) được định bằng Carbon phóng xạ cho thấy niên đại khoảng 4000 năm (trước Tây lịch) Người Hy lạp và La mã (theo Cato) đã trồng cây để nuôi gia súc, và để làm thuốc. Hippocrates đã dùng fenugreek để trị nóng sốt. Người Ai cập dùng cây làm một trong các hợp chất để xông hương và để ướp xác.
Fenugreek, được ghi trong lịch sử Do thái, như là một..võ khí chống ngoại xâm ! Năm 66-70 Tây lịch, Tường La Mã (sau thành Hoàng đế) Vespasian bao vây thành Jerusalem và ra lệnh cho quân sĩ san bằng bức tường thành. Phương thức phòng thủ của dân Jerusalem là đổ nước sôi hay dầu sôi vào quân xâm lấn dùng thang trèo lên mặt thành và theo Sử gia Flavius Josephus thì người Do thái đã thêm dầu fenugreek vào nước sôi để gây tăng thêm sự..trơn trợt cho quân La mã.. 
   Fenugreek có nguồn gốc tại những vùng quanh Địa Trung hải và Tãy Á. Cây được các tu sĩ dòng Benedictins đưa về Trung Âu từ thế kỷ thứ 9 và Charlemagne (812) đã cổ võ việc sử dụng cây này. Cây cũng được du nhập vào Trung Hoa từ thời nhà Tống (1057 tây lịch).
Phụ nữ Ả rập, từ Libya đến Syria ăn hạt fenugreek rang để tăng cân và giúp tạo thân hình thẩm mỹ theo trường phái Ruben (cho đến thế kỷ 19, thân hình phụ nữ được xem là đẹp cần phải phát triển, nẩy nở và đều đặn nhất là các phần hông..). Các vị 'chủ nhân' của các harem ăn hạt để làm thuôc kích thích tình dục (aphrodisiac) , hiện nay tại nhiều nơi trong thế giới Ả rập vẫn xem hạt fenugreek như một vị thuốc kích dục (?). Các bà mẹ nuôi con tại Ethopia ăn thêm fenugreek để giúp có nhiều sữa..
 
 
Tên khoa học và các tên gọi khác :
Trigonella foenum-graecum thuộc họ thực vật fabaceae.
Tên Anh-Mỹ khác Greek hay, Bird's Foot
Pháp : Fenugrec ;  Đức :Bockshornklee ; Tây Ban nha : Alholva ; Ý : Fieno Greco; Nhật : Koroha
Tên Ấn độ : Methi, Methi saag ; Phạn : Methika
Tên Trigonella,do tiếng Hy lạp có nghĩa là có 3 cạnh, do hình dạng của hoa. Tên Anh ngữ Fenugreek, do 'foenum-graecum' , tiếng latinh có nghĩa là rơm Hy lạp : cây đã được dùng để trộn thêm các rơm rạ có phẩm chất kém để tạo mùi thơm. Trước đây tại Hy lạp, fenugreek được trộn vào các rơm rạ bị mốc hay bị hư hỏng do côn trùng phá hoại, giúp rơm trở thành..dễ ăn hơn, và hơn nữa trong thiên nhiên trâu bò và ngựa khi đau ốm chỉ chịu ăn fenugreek.

Đặc tính thực vật : 
Cây thuộc loại thảo hằng niên, có thân tròn không lông, mọc thẳng đứng, có thể cao 60-80 cm, rễ phát triển. Lá mọc so le, có mang 3 lá chét (lá phụ) xoan ngược, dài 1.5-2 cm, rộng 0.5-1 cm. mép lá có răng cưa ở phân nửa phần trên, phiến có 4 đôi gân phụ. Lá có cuống ngắn 4-6 mm. Hoa màu vàng nhạt hay trắng, mọc ở nách lá, đơn độc hay từng đôi. Tràng hoa dài gấp đôi đài hoa. Quả hình trụ thẳng, hơi cong, dài 10-12 cm, rộng 4-5 mm, có mỏ nhọn ở đầu, chứa 10 đến 20 hạt. Hạt màu nâu sáng, hay vàng-nâu, hình thoi, dẹp, rất cứng (3x4 mm), nhiều cạnh, có mùi thơm. Cây trổ hoa vào các tháng 4-6 và ra quả trong các tháng 7-8..
Fenugreek thuộc loại có chu kỳ sống ngắn, có thể thu hoạch sau 3-4 tháng gieo trồng và mỗi năm có thể trồng xoay vòng đến 3 lứa.
Các nước xuất cảng feugreek hiện nay là : Ấn độ, Pháp, Lebanon, Ai cập và Argentina.
 
*    Thành phần hóa học :
Thành phần hóa học của hạt fenugreek :
Chất nhày (2.5-45 % gồm các  mannogalactans)
Chất đạm (25-30%) trong đó có các amino acids như choline-4-hydro xyisoleucine, lysine, tryptophan, histidine, arginine, cystine và tyrosine..
Các chấc ức chế proteinase
Các saponins loại steroid (1.2-1.5%) gồm cả các trigofoenosides từ A đến G, alycones gồm diosgenin,yamogenin , gitogenin, smilagenin, tigogenin, yuccagenin..
Ester loại steroid saponin-peptid như foenugraecin
Các sterols : chất chính là 24xi-ethyl-cholest- 5-en-3beta- ole (65%)
Flavonoids gồm isoorientin, isovitexin, orientin arabinoside, isoorien tin arabinoside, saponaretin, vicenin-1, vicenin-2, vitexin
Trigonelline (coffearin, N-methylbetaine của nicotinic acid, 0.4%)
Tinh dầu dễ bay hơi (0.01%) : hợp chất tạo mùi 3-hydroxy-4, 5-dime thyl-2 (5H)-furanone.
Dược tính  của fenugreek :
Fenugreek và Tiểu đường :
   Hạt fenugreek là một trong số ít dược thảo được WHO và nhiều quốc gia công nhận là có hoạt tính giúp hạ đường trong máu. Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã giúp chứng minh khả năng hạ đường của hạt fenugreek, khi thử trên thú vật và cả khi thử nghiệm lâm sàng nơi người (Phytotherapy Research Số 12-1998).  
Hạt fenugreek, sử dụng đơn độc, hay dùng phối hợp với vanadate, tạo ra một sự bình thường hóa các men glucose-6-phosphata se và fructose-1,6- biphosphatase trong gan và thận của chuột bị tiểu đường. Hoạt tính hạ đường tăng cao hơn khi dùng dưới dạng phối hợp.Hạt fenugreek cũng có hoạt tính giúp bình thường hóa hoạt động của men glyoxalase I nơi gan của chuột bị tiểu đường (Indian Journal of Expe rimental Biology Số 37-1999) Khi cho chuột bình thường và chuột bị gây tiểu đường bằng alloxan dùng fenugreek ở những liều 2 và 8 g/kg hiệu ứng hạ glucose trong máu xẩy ra rất rõ rệt, hiệu ứng này tùy thuộc vào liều sử dụng (Journal of Ethnopharmacology Số 75-2001)
Khi thử trên thỏ, hạt và các dịch chiết khác nhau đều có những hoạt tính hạ đường (thừ bằng test độ dung nạp glucose). Phần chứa nhiều alkaloid là phần có hoạt tính mạnh nhất (Indian Journal of Pharmaceutical Science Số May-June 1987)
Các nghiên cứu thực hiện trên những người tự nguyện đều ghi nhận tác dụng hạ đường của fenugreek, nhất là nơi những bệnh nhân bị tiểu đường, không tùy thuộc vào insulin (NIDDM) : trong một thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát, hoạt tính của 3 chế phẩm từ hạt (hạt tươi, hạt đun sôi và hạt nẩy mầm) được dùng cho 6 người bình thường và 6 bệnh nhân (các bệnh nhân dùng hạt tươi và hạt nẩy mầm), kết quả cho thấy hạt tươi và hạt nẩy mầm làm hạ glucose nơi tất cả 12 người, và hạt đun sôi không có tác dụng (Journal of Food Science and Techno logy Số 33-1996). Một thử nghiệm khác trên 21 bệnh nhân NIDDM ghi nhận liều 15 gram hạt cho dùng một lần trong bữa ăn gây hạ glucose trong máu, và không gây những thay đổi về nồng độ insulin (Nutrition Research  Số 16-1996).. Ngoài ra, cũng trong một thử nghiệm trên 15 bệnh nhân NIDDM, cho dùng hạt fenugreek đã loại chất béo trong 10 ngày, gây hạ glucose trong máu (nhịn ăn đêm trước) và giảm lượng glucose đào thải qua nước tiểu đến 64%. Thữ nghiệm này cho rằng cơ chế tạo ra hạ đường trong máu của fenugreek có thể do hiệu ứng của chất sơ dinh dưỡng (Soluble dietary fiber) trên sự hâp thu glucose nơi ruột và do sự cải thiện hoạt tính ngoại vi của insulin (Nutrition Research Số 10-1990 ; British Journal of Nutri tion Số 97-2007).
Hạt fenugreek cũng làm giảm được một số triệu chứng của tiểu đường như khát nước, đi tiểu nhiều lần, yếu mệt và sụt cân.
Tại các bệnh viện ở Trung Hoa, Saponins tổng cộng trích từ hạt fenugreek đã được dùng phối hợp với sulfonylureas để trị tiểu đường cho thấy sự phối hợp đem lại những kết quả rất tốt, giúp bệnh nhân giảm được sulfonylurea và kiểm soát được mức đường hữu hiệu hơn (Chinese Journal of Integrative Medicine Số 14-2008)
Fenugreek và Cholesterol :
   Một số nghiên cứu thực nghiệm nơi chuột đã chứng minh được hoạt tính làm hạ Cholesterol của fenugreek (Current Science Số 51-1982).
Hạt fenugreek  giúp ngừa gia tăng cholesterol nơi chuột cho ăn các thực phẩm hay một chế độ ăn uống chứa nhiều cholesterol (British Journal of Nutrition Số 69-1993).
Một acid amin đặc biệt, trích từ fenugreek : 4-hydroxyisoleucine 5 có khả năng gây hạ triglycerides trong máu đến 33%, cholesterol tỗng cộng đến 22% và acid béo tự do 14%, cùng với sự tăng tỷ lệ HDL-C/TC đến 39% khi thử trên chuột bọ bị gây cao mỡ trong máu (Bio organic & Medicinal Chemistry Letters Số 15-2006)
Saponin loại steroid, trích từ hạt fenugreek, thử nơi chuột, với liều mỗi ngày 12.5g/ 300g trọng lượng cơ thể làm hạ rõ rệt cholesterol trong huyết tương ở cả chuột bình thường lẫn chuột bị tiểu đường (Steroids Số 60-1995).
Hoạt tính chống sưng cũa Fenugreek :
   Hạt fenugreek đã được nghiên cứu vế tác dụng chống sưng, thử nghiệm trên chuột lang (albino) bị gây viêm bằng các chất gây sưng khác nhau.. Hoạt tính chống sưng được so sánh với sodium salicylate. Dịch chiết từ hạt bằng ether có hoạt tính mạnh nhất (Indian Drugs Số February 1982) Một thử nghiệm khác cũng trên chuột, bị gây đau bằng acid acetic, bằng nhiệt (bị đặt trên đĩa nung nóng), dịch chiết từ hạt fenugreek được so sánh  với pentazocine và diclofenac, kết quả ghi nhận phần tan trong nước của dịch chiết có hoạt tính chống sưng và làm giảm đau khá mạnh.(Asian Pacific Journal of Clinical Nutrition Số 16-2007)
Khả năng kháng sinh :
   Fenugreek đã được thử nghiệm về hoạt tính kháng sinh trên 26 loại vi trùng gây bệnh và cho thấy khả năng kháng sinh khá rộng (Natural Products Science Số 7-2001) : Dầu béo và Phần không bị savon-hóa, trích từ hạt đều có hoạt tính kháng sinh khá mạnh.
Hoạt tính diệt ký sinh trùng Sốt rét :
Dịch chiết bằng các dung môi khác nhau từ lá fenugreek đã được thử nghiệm 'in vitro' trên các chủng ký sinh trùng gây sốt rét Plasmodium falciparum (gồm các chủng còn mẫn cảm và các chủng đã kháng chloro quin). Kết quả cho thấy, dịch chiết bằng ethanol 50% có hoạt tính diệt ký sinh trùng mạnh nhất ở liều IC50=8.75 +/- 0.35 microg ml(-1) đối với plasmodium còn phản ứng với chloroquin và ở liều IC50= 10.25 +/- 0.35 microg ml(-1) đối với plasmodium đã kháng chloroquin. Các dịch chiết bằng butanol, chloroform và ethyl acetate tuy cũng có tác dụng nhưng yếu hơn nhiều (Evidence Based Complementary and Alternative Medi cines Số 2 tháng 5, 2008). Hạt fenugreek có khả năng diệt được ấu trùng (lăng quăng) của muổi đòn sóc Anopheles pharoensis : Nồng độ cao hơn 0.5% có thể diệt toàn bộ số lượng lăng quăng (Egyptian Society of Parasitology Số 36-2006)  
Khả năng chống oxy-hóa :
     Nhiều nghiên cứu trong công nghiệp thực phẩm đã cho thấy hạt fenugreek có thể hữu hiệu khi dùng làm chất chống oxy-hóa để bảo quản thực phẩm. Trong một thử nghiệm, tiềm năng chống oxy-hóa của fenugreek có thể so sánh được với các chất kháng oxy tổng hợp như butylated hydroxyanisole và butylated hydroxytoluene (Meat Science Số 57-2001); khả năng kháng-oxy của hạt fenugreek hoạt động rất tốt khi dùng bảo quản thịt heo xay (cà thịt tươi lẫn thịt đông lạnh).
Khả năng bảo vệ gan chống tác hại của rượu :
Các polyphenols trích từ hạt fenugreek được nghiên cứu về khả năng bảo vệ gan (nơi chuột) chống lại tác hại của rượu : Ruột bị gây hư gan bằng cho uống thenol 6g/kg mỗi ngày liên tục trong 60 ngày  : các triệu chứng hư gan bao gồm các thông số về hoạt động của các men gan, giảm hạ các nhóm sulfohydryl, gia tăng các nhóm carbonyl proteins..Kết quả ghi nhận là fenugreek có hoạt tính tương tự như silymarin (dùng làm đối chứng), giúp cải thiện được các thay đổi bệnh lý ở gan gây ra do rượu (Cell Biology and Toxicology Số 24-2008)
Khả năng ngừa và trị sạn thận :
Hạt fenugreek được sử dụng tại Maroc để ngừa và trị sạn thận. Nghiên cứu tại ĐH Cadi-Aỳyad, Marrakech (Maroc) ghi nhận hiện tượng calci hóa trong thận và lưọng calcium tổng cộng nơi các tế bào thận của chuột được cho uống dịch chiết từ hạt fenugreek thấp hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng. Fenugreek cho thấy tương đối hiệu nghiệm trong tác dụng ngăn ngừa sự tạo sạn calcium oxalate.(Phytothera py Research Số 21-2007)
Fenugreek vả Ung thư :
Trong một thử nghiệm thực hiện tại Đại học UAE (United Arab Emirates) hạt fenugreek cho thấy có hoạt tính bảo vệ được chuột chống lại ung thư vú, gây ra bởi 7,12-dimethylbenz (alpha) anthracene (DMBA). Liều 200 mg/ kg trọng lượng cơ thể ức chế rõ rệt hiện tượng phì vú do DMBA tạo ra, hoạt tính này được giải thích là do gây ra hiệu ứng tế bào được mã hóa để tự diệt ( apoptosis) (Cell Biology International Số 29-2005). Dịch chiết từ hạt fenugreek bằng alcohol, khi thử nghiệm trên chuột bị gây ung thư loại Ehrlich ascites carcinoma (EAC) cho thấy khi chích qua màng phúc toan (trước và sau khi chuột bị cấy tế bào ung thư), fenugreek có thể ức chế sự tăng trưỡng của tế bào ung thư đến 70% (Phytotherapy Research Số 15-2001) 
 
Độc tính và liều lượng khi sử dụng làm thuốc :
Fenugreek đã được sử dụng từ lâu đời để lảm thực phẩm và không gây ra nhựng phản ứng độc hại nào. Các nghiên cứu về độc tính cho thấy , cho chuột thử nghiệm ăn liên tục trong 90 ngày những liều lượng cao từ 2 đến 4 lần các liều dùng trị bệnh, đều không gây tác hại nào trên gan và máu (Phytotherapy Research Số 10-1996). Ngoài ra, khi cho các bệnh nhân tiểu đường dùng hạt theo liều 25 gram/ ngày, trong 24 tuần liên tục, không thấy có sự biến đổi trong các thông số về hoạt động của gan, thận và máu (Nutrition Research Số 16-1996).Tuy nhiên, bệnh nhân tiểu đường, khi dùng thêm fenugreek, cũng cần thông báo cho bác sĩ điều trị để tránh tình trạng mức đưởng hạ quá thấp khi dùng chung với các thuốc trị tiểu đường khác.
Liều thông thường : Hạt tán thành bột là 6 gram/ ngày
Theo Commission E (Đức), hạt fenugreek được chấp nhận làm thuốc giúp ăn ngon miệng dưới dạng trà dược (ngâm 0.5 gram trong 240 ml nước lạnh trong 3 giờ, lược và hâm nóng lại, có thể thêm mật ong khi uống) và dùng bên ngoài trị sưng da dưới dạng bột nhão để đắp.
 
Fenugreek trong Y dược dân gian :
Y dược cổ truyền Trung Hoa : dùng hạt làm dược liệu, gọi là Hồ lô bá. Hạt được xem là có vị đắng, tính ấm có các tác dụng 'ôn thận', tán hàn và chỉ thống. Dùng trị các trường hợp trị tạng thận suy yếu, đau bao tử, đau ruột, sưng chân, thấp gây ra đau khớp khó đi lại.
Tại Hoa Kỳ : Những người di dân đầu tiên đến miền Đất mới, đã dùng fenugreek làm một phương thuốc giúp điều hòa kinh nguyệt. Một hỗn hợp dược thảo có chứa fenugreek rất nổi tiếng trong thế kỷ 19 tại Mỹ là Lydia E Pinkham's Vegetable Compound, được quảng bá như một dược phẩm trị 'female weakness' (khó chịu khi có kinh). Nhà sản xuất đã 'dám' quảng cáo 'đây là một khám phá lớn nhất về y học từ khi ..có lịch sử', gây ra những phản ứng đưa đến việc Chính phủ đặt ra Cơ quan FDA để kiểm soát các 'quảng cáo về trị bệnh'. Hiện nay trên thị trường các chất hổ trợ dinh dưỡng vẫn còn bán Pinkham's Compound nhưng hợp chất..không còn chứa fenugreek.
Tại Ấn độ : Cây non và lá có mùi thơm được dùng làm rau ăn, hạt dùng làm gia vị chế biến cà ri. Cây và lá tán thành bột, trộn nước lảm thành khối nhão để đắp trị phỏng và đắp trên da đầu để giúp chống bạc tóc. Lá được dùng uống trị ăn không tiêu và bệnh về mật, nước sắc toàn cây dùng trị bệnh huyết trắng. Hạt được dùng cho các sản phụ để tăng sữa. Hạt, sau khi rang chín, tán thành bột, được dùng để trị kiết lỵ, và tại vùng Hymalaya, cho trẻ em dùng để trị sán lãi.
 
Fenugreek dùng làm Rau và Gia vị :
Đọt non của cây được băm vụn, trộn chung vào các món salad. Lá được dùng làm rau. Hạt màu vàng có vị hơi đắng, gần như cần tây và phong (maple). Trong ẩm thực, phương pháp sử dụng hạt tốt nhất là rang khô trước khi dùng để làm mất vị đắng (tuy nhiêng nếu rang quá độ, hạt sẽ mất ngon). Hạt cũng có thể để nẩy mầm như giá đậu, mustard và ăn như salad. Hạt nghiền thành bột là một thành phần quan trọng trong bột càri Ấn độ, trong món halva của người Do thái. Hạt khá cứng, nên không thể tán thành bột bằng cách dùng chày và cối, mà phải dùng đến một máy xay chuyên biệt. Dầu fenugreek có vị của maple, có thể dùng thay maple khi nấu nướng.
Đặc tính dinh dưỡng của hạt fenugreek :
100 gram hạt chứa :
- Calories                                   323
- Chất đạm                                23.00 g
- Chất sơ                                   10.07 g
- Chất béo                                 6.41 g
- Calcium                                 176 mg
- Sắt                                          33.53 mg
- Magnesium                            191 mg
- Phosphorus                             296 mg
- Potassium                               770 mg
- Sodium                                   67 mg
- Kẽm                                        2.5 mg
- Đồng                                       1.11 mg
- Manganese                              1.228 mg
- Thiamine                                 0.322 mg
- Riboflavine                             0.366 mg
- Niacin                                     1.640 mg
- Folic acid                                57 mcg
- Vitamin C                               3.00 mg
 
   Fenugreek được dùng trong nhiều món ăn tại nhiều quốc gia khác nhau.
Tại Ấn độ, hạt fenugreek ngoài vai trò trong càri, còn là một trong 3 chất của idli hay dosa (Tamil); là một trong thành phần nguyên liệu để làm loại bánh mì khakhra. Tại Ethiopia và Erythrea, hạt dùng trong bánh mì injera/taita, loại bánh truyền thống của vùng Sừng Phi châu. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, hạt (gọi là ceman) dùng trong bột cay để làm món pastirma. Tại Ai cập, hạt được đun sôi, thêm đường, để món nước uống rất được ưa thích trong những tháng mùa Đông. Tại những nơi khác trong vùng Trung Đông, fenugreek có mặt trong nhiều món kẹo, bánh, chè ngọt. Món bánh ngọt tráng miệng Helba (bánh phủ đường hay si rô maple, rắc thêm hạt fenugreek trên mặt) rất được ưa thích trong các dịp lễ lạc Hồi giáo. Người Do Thái có phong tục ăn fenugreek trong bữa ăn của đêm thứ nhất hay thứ nhì của lễ Rosh Hashana (Năm Mới).
 
Tài liệu sử dụng :
Whole Foods Companion (Dianne Onstad)
PDR for Herbal Medicines
Major Herbs of Ayurveda (Elizabeth Williamson)
Cây có Vị thuốc ở Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ)
The Book of Spices (Frederic Rosengarten Jr)

Fenugreek (Methi)

Trust the good old green leafies to come to the rescue. For millions of diabetics, hope comes in the form of fenugreek (methi) seeds. Scientists at the Pune-based National Centre for Cell Science (NCCS) have prepared a novel formulation from extracts of fenugreek seeds that helps bring down the blood glucose level in the body and hence proves to be a boon for diabetic patients.
Scientists realized that to manage a chronic disease such as diabetes, it was pertinent to test the sustained lowering of blood glucose levels for a long period of time. Their research demonstrated the anti-diabetic potential of the formulation that remained effective for a longer period of time.
The encouraging results have now led a herbal medicine company, Indus Biotech, to venture into the field and take the same extract for a factory-level preparation. Dr Manoj Bhat, scientist at NCCS whose research on the “hypoglycemic effect of a novel dialysed fenugreek seeds extract is sustainable and is mediated, in part, by the activation of hepatic enzymes” is published in ‘Phytotherapy Research’ journal and the British Journal of Pharmacology. It says there is a great scope for plant-derived pharmaceuticals, which can work as an alternative to the current management of hypeglycemia. Diabetes mellitus is an alarming medical problem affecting more than 194 million people. Persisting diabetic conditions often lead to damage of blood vessels, increased risk of coronary artery disease, stroke, blindness, nerve damage, and in extreme situations, may even lead to amputations

TÌM HIỂU VỀ FUCOIDAN




TÌM HIỂU VỀ FUCOIDAN

Ds Lê-văn-Nhân

Sách “ Sức mạnh kỳ diệu của FUCOIDAN” dịch từ bản gốc tiếng Nhật của bác sĩ Daisuke Tachikawa, hình bìa trình bày rất đẹp và giá 20 USD. Có lẽ Nhật là quốc gia nghiên cứu nhiều nhất về sản phâm thiên nhiên chống ung thư như nấm và rong tảo, nên Fucoidan cũng gốc ở Nhật.Hiện nay công ty phát hành bán quảng cáo giá $10/ quyển nếu gọi số 1-888-998-8613.

Theo bệnh viện ung thư nổi tiếng ở miền Đông Hoa-kỳ, Memorial Sloan Kettering Cancer Center,( www. mskcc.org/mskcc/html/69227.cfm) , thì trên mặt hóa học, Fucoidan là lọai chuổi polysaccharide và dồi dào sulfat fucose tìm thấy trên vách tế bào của nhiều lòai tảo nâu nhất là ở vùng biển phía bắc nước Nhật. Đúng ra đây là những chất nhờn bao bọc lá rong. Nghiên cứu in vitro, cho thấy Fucoidan có tính chống u bướu, chống sinh mạch máu mới, kháng siêu vi, điều hòa tác dụng của hệ miển nhiễm. Những tác dụng này do kích thích tế bào sát thủ tự nhiên (natural killer cells) và giảm tăng sinh tế bào với sự tham dự của AP-I. Fucoidan cũng cho thấy có tác dụng bảo vệ thần kinh, bảo vệ bức xạ, và chống lóet nhưng thiếu dữ liệu ở người.

Trong những nghiên cứu khác, fucoidan chứng tỏ họat động chống đông máu, chống huyết khối và có tác dụng cọng thêm khi dùng chung với thuốc chống đông máu.

Mục đích sử dụng:
  • dị ứng
  • nhiễm khuẩn
  • cao huyết áp
  • kích thích hệ miển nhiễm
  • Viêm
  • nhiễm siêu vi

Thành phần:
  • alpha (1,2) hay alpha (1,3)4-O- sulfated-L-Fucose
  • galactose
  • Xylose
  • Glucuronic Acid

Cơ chế tác dụng:
Fucoidan ức chế di căn bằng cách ngăn tế bào u bướu gắn kết với mạng lưới ngòai tế bào. Điều này thực hiện bằng cách ngăn chặn vùng kết nối tế bào với fibronectin, cần thiết cho hổn hợp kết dính. Fucoidan cũng cho thấy cảm ứng “apoptosis” tạm dịch là chương trình tự hủy diệt củatế bào T lòai người kiểu siêu vi (HTLV-1) gây ra ung thư tế bào T người lớn, bằng cách làm mất họat động của NF-kB điều hòa protein chống apoptosis (PubMed có 1 bài tóm tắt trên báo Nutr Cancer 2005;52 (2):189-201 của nhóm Haneji K. và cộng sự, bộ môn siêu vi và ung thư phân tử, đại học y khoa Ryukyus ở Okinawa Nhật-bản). Fucoidan đàn áp AP-I, yếu tố sao chép tham dự vào tăng sinh tế bào và biến dạng tế bào. Nghiên cứu in vitro cho thấy Fucoidan có thể lọai bỏ sinh mạch máu mới do tế bào sarcoma 180 ở chuột nhắt. Fucoidan điều hòa tác dụng miển nhiễm và tăng cường họat động của tế bào sát thủ tự nhiên (NK), đóng vai trò chính trong trung gian tế bào tự hủy. Tác dụng bảo vệ thần kinh của Fucoidan do khả năng dẹp bỏ TNF-a và sản xuất nitric oxide do interdferon-gamma ở tế bào thần kinh não C6 và tính chống oxyt hóa.

Chống chỉ định:
Vì tính chất chống đông máu, fucoidan có thể cọng thêm tác dụng với thuốc chống đông máu đang dùng như warfarin và heparin.

Tác dụng nghịch:
Không có báo cáo tác dụng nghịch do dùng Fucoidan.

Góp ý:
Tác dụng hạ đường và giảm cholesterol có thể do làm chậm hấp thụ những chất này, như khi chúng ta dùng những chất xơ hòa tan khác.

Những tác dụng chống ung thư và tăng họat động hệ miển nhiễm, mặc dầu được chứng minh trong phòng thí nghiệm, nhưng chưa có chứng minh lâm sàng, nên Fucoidan có thể giúp ích cho một số người bệnh ung thư hoặc không có tác dụng. Vì thuốc không có tác dụng nghịch, nên nếu người bệnh muốn thử có thể được trừ khi đang dùng chất chống đông máu, nhưng nên cho gia đình bệnh nhân biết là kết quả không chắc chắn, đừng hy vọng quá nhiều.







7/05/2011

SỰ KHÁC BIỆT QUÁ LƠN GIỮA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI NHẬT.

Tại sao có sự khác biệt quá lớn
giữa người Việt Nam và người Nhật Bản?http://www.vietlyhuong.net/2011/05/tai-sao-co-su-khac-biet-qua-lon-giua.html
                       Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá), nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất—không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.
                        Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái Dương Thần Nữ.
                        Càng biết thêm về họ tôi càng phục họ hơn. Đó là một dân tộc có nhiều điểm rất đặc biệt. Một dân tộc luôn tự hào về những giá trị truyền thống nhưng khi cần cũng sẵn sàng dứt bỏ những gì đã lỗi thời. Một dân tộc mang niềm kiêu hãnh lớn lao nhưng đồng thời cũng luôn biết học hỏi cái hay của người khác. Một dân tộc đã từng đánh bại các đế quốc Mông Cổ, Trung Hoa và Nga Sô nhưng cũng biết nuốt cái nhục bại trận để vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Một dân tộc ít khi ồn ào lớn tiếng, và luôn xem trọng sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả, đó là một dân tộc chưa bao giờ biết đầu hàng trước nghịch cảnh.
                        Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của một người Việt sống lâu năm tại Nhật, quên mất tên tác giả, trong đó ông có nêu ra một chi tiết để phân biệt giữa người Nhật bản địa và người ngoại quốc sống ở Nhật—đó là nhìn qua cách phơi quần áo. Người ngoại quốc phơi lung tung, còn người Nhật phơi theo thứ tự, quần theo quần, áo theo áo…
                        Đúng như nhà văn Haruki Murakami đã nhận định: “Người Nhật là kho tàng của nước Nhật.” Tôi rất cám ơn đất nước này vì chính người Nhật đã cho tôi một niềm tin rằng bất cứ một đất nước nào, dù nhỏ, dù bị bất lợi về địa lý, tài nguyên… nhưng nếu dân tộc đó có một nhân sinh quan đúng đắn thì vẫn có thể trở thành một dân tộc giàu mạnh.
                        – — –
                        Thiên tai động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật cách đây 2 tháng, mặc dầu những tin tức liên quan đến biến cố này không còn được nhắc đến nữa, nhưng đối với những người Việt Nam còn quan tâm đến đất nước thì những dư âm của nó vẫn còn để lại nhiều vương vấn suy tư. Cùng là hai nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh nào đã đưa đẩy hai dân tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngã mũ bái phục, còn dân tộc kia thì ít khi được nhắc đến, hay nếu có thì thường là những điều không lấy gì làm vinh dự cho lắm.
                        Sau biến cố này đã có hàng ngàn ý kiến xuất hiện trên các diễn đàn Internet đặt câu hỏi: “Tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật,” phần lớn những ý kiến này xuất phát từ những người trẻ đang sống ở Việt Nam. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy có nhiều người Việt Nam đang thao thức muốn thay đổi số phận của đất nước mình.
                        Đây là một đề tài rất lớn và đòi hỏi sự suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là những nhà trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên xem như những lời góp ý rất khiêm tốn.
                        Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn Niên Biểu cụ Phan bội Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu nước (lần đầu tiên vào năm 1905). Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu. “Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”
                        Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm. Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.
                        Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy. Trong quyển Thảm nạn Nhật Bản (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: “Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình,” chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.
                        Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống HiroshimaNagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng nỗi.”
                        Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.
                        Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.
                        Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers)—vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu. Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.
                        Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: Người Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại. Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày 20 tháng 3 đăng bài Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta của ký giả Nicholas Kriftoff.
                        Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng hay không.”
                        Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.
                        Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.
                        Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát không ai màn tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của. Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ này.”
                        Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.
                        Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối.
                        Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục này.
                        Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.
                        Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người viết—chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước. Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ phép.
                        Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên cạnh mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy ngày qua nhưng nét mặt của các em vẫm bình thản chờ đợi thức ăn mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh dự và khắc kỹ... không phải chỉ học ở trường hay qua sách vở mà còn qua những tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
                        Mai đây nếu có một cuốn sách giới thiệu những nét đẹp nhất, cao thượng nhất của con người sống trên hành tinh này thì cuốn sách đó không thể thiếu được những hình ảnh của người Nhật trong thiên tai vừa qua.
                        – — –
                        Trông người lại nghĩ đến ta!
                        Trong bài Góc ảnh chiếu từ nước Nhật, nhạc sĩ Tuấn Khanh (ở VN) đã viết một câu thật thấm thía:
                        “Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật, người ta bừng sáng hy vọng và đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn.”
                        Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra? Ông Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:
                        – Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa.
                        – Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.
                        – Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.
                        – Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.
                        – Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.
                        – Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.
                        - Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.
                        – Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.
                        – Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.
                        – Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng.
                        v.v..
                        Tôi không nghĩ là ông Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào. Nói chung nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại chịu,” còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.
                        Ngay tại hải ngoại, nếu thiên tại xảy ra tại những nơi tập trung đông đúc người Việt, phản ứng của người dân có thể không tệ như trong nước nhưng chắc chắn bức tranh đó cũng sẽ không được đẹp đẽ cho lắm.
                        Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình—vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những quan điểm như thế.
                        Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm những gì. Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh. Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như AQ chính truyện, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với Người Trung Quốc xấu xí cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể. Cuộc cách mạnh Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu Người Nhật xấu xa xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.
                        Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc an thần.
                        Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như những gì mà người CS đã làm đối với dân VN trong hơn nửa thế kỷ qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.
                        Người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng. Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào người ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.
                        Mỗi khi nói về những tệ hại của đất nước VN hiện nay đa số chúng ta thường hay đổ hết trách nhiệm cho người Cộng Sản. Thật sự Cộng Sản không phải là thành phần duy nhất chịu trách nhiệm cho những bi kịch của đất nước hôm nay, họ chỉ là sản phẩm đương nhiên của một nền văn hóa thiếu lành mạnh. Nếu Cộng Sản là nguyên nhân của mọi sự xấu xa thì thành phần người Việt đang sống tại những quốc gia văn minh và giàu có nhất thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc… phải là những người thể hiện nếp sống văn hóa cao xứng đáng với xã hội văn minh mà họ thừa hưởng. Nhưng không, những người Việt đó, tuy khá hơn người trong nước nhưng vẫn thua kém nhiều sắc dân khác, vẫn mang tất cả những khuyết tật mà cụ Phan Bộ Châu, Phan Chu Trinh đã nêu ra gần một trăm năm trước. Vẫn chia rẽ, vẫn tỵ hiềm nhau, vẫn xâu xé lẫn nhau, có khi chỉ vì bất đồng quan điểm, có khi chỉ vì một quyền lợi thật nhỏ, thậm chí có khi chỉ vì một hư danh.
                        Không phải là một tình cờ của lịch sử mà chủ nghĩa Cộng Sản đã dành được những thắng lợi trong cuộc cách mạnh mùa thu năm 1945, và luôn luôn giữ thế thượng phong trên đất nước VN từ đó đến nay. Dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh thay vì Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… hoàn toàn không phải vì Hồ Chí Minh giỏi hơn, yêu nước hơn, nhiệt tình hơn những người kia, nhưng chỉ vì Hồ Chí Minh đáp ứng đúng tâm lý của người Việt—đó là tâm lý tôn thờ bạo lực. Chắc chắn không có nước nào trên thế giới này mà bài Quốc Ca có câu sắt máu như thế này: “Đường vinh quang xây xác quân thù,” mà “quân thù” đó bất cần là ngoại bang hay đồng bào ruột thịt, nghe mà rợn người. Khẩu hiệu của phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930, 31 do đảng Cộng Sản lãnh đạo là: “Trí, phú, địa, hào / Đào tận gốc trốc tận rễ.”
                        Đối với người VN bạo lực có sức quyến rũ hơn là nhu cầu khai sáng trí tuệ để giải quyết vấn đề một cách ôn hòa. Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa Cộng Sảndựa trên bạo lực cách mạng và đấu tranh giai cấp. Giải pháp bạo lực này đòi hỏi phải luôn tồn tại một kẻ thù làm đối tượng. Hết kẻ thù thực dân phải tìm ra một kẻ thù khác để có lý do hành động, chính vì thế cho nên máu và nước mắt vẫn tiếp tục rơi trên đất nước VN trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
                        Hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh, Phan Chu Trinh chọn giải pháp “Khai Dân trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh.” Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ. Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.
                        Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.
                        Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài nước chọn chủ nghĩa Cộng Sản trong đó có VN, phải trả bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới. Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc của VN chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Người Cộng sản biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối Cộng Sản và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc "bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng".
                        Hà Sĩ Phu đã có nhận xét rất đúng là giữa Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh, dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh và những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự chọn lựa đó.
                        Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu—một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.
                        Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.
                        Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.
                        Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước. Sự khác biệt về kinh tế, sự giàu có tiện nghi không phải là điều quan trọng, chủ yếu là sự khác biệt về cách suy nghĩ (mentality) giữa hai dân tộc. Vào thời điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm lăng VN thì dân ta vẫn còn u mê bám vào những giá trị đã lỗi thời, người Nhật tức thời bỏ những truyền thống hủ lậu, học hỏi những cái hay của Tây Phương để bắt kịp họ. Đến thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, VN muốn trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, người Nhật biết nuốt nhục của kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã thượng của kẻ chiến thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để vươn lên thành một cường quốc kinh tế.
                        Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Những nghiên cứu công phu và nghiêm chỉnh của các cơ quan quốc tế gần đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Program – UNDP) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng sự chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu không phải do yếu tố địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa. Văn hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ (mentality) của mỗi dân tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau khi đương đầu với cùng một thử thách. Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính phủ tham nhũng cả hàng triệu đô la như ở các nước Phi Châu hay VN ngày nay mà mọi người vẫn xem đó là chuyện bình thường, trong lúc đó tại một nước khác—một bộ trưởng chỉ vì nhầm lẫn nhận 600 đô cho quỹ tranh cử đã phải xin lỗi quốc dân rồi từ chức?[1] Tại sao một quốc gia nhỏ bé như Do Thái chưa tới 3 triệu dân,[2] có thể chiến thắng cả khối Á Rập trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh cho đến ngày hôm nay? Trong lúc đó có những nền văn minh đã từng một thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất… và còn cả ngàn thí dụ khác để chứng minh rằng chính yếu tố văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của mỗi dân tộc.
                        Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa Kỳ… cho dù bị thiên tai tàn phá đến đâu, cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể vươn trở thành những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq, Nigeria, Venezuela, Angola, Libya... mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những nước nghèo.
                        Bước ngoặc quan trọng nhất đã làm thay đổi khoảng cách giữa ta và Nhật chính là cuộc cách mạng Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời thay đổi thì các vua chúa VN vẫn còn ngủ mê bên trong các bức tường cung điện ở Huế. Họ không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương.
                        Vào tháng 7 năm 1853 khi triều đình Tokugawa từ chối không cho Thuyền trưởng người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức thư của Tổng Thống Fillmore, ông ra lệnh bắn vào thành phố Edo (Tokyo ngày nay). Những quả đại bác này đã làm cho người Nhật thức tỉnh ngay. Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc đã làm cho họ đoàn kết lại để tìm cách giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này đã mở đầu cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm. Đó là một cuộc cách mạnh đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ, người đi Âu Châu, kẻ đi chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống tàu buôn Tây Phương như trường hợp của thần đồng Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một mục đích là tìm đến tận nguồn cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh túy mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một cách dứt khoát tất cả những cái cũ không còn hợp nhưng không để mất tinh thần độc lập. Họ không phải chỉ có một ông vua Minh Trị hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế quyết tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các nước Tây Phương.
                        Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm tưởng đó là cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao thương và học hỏi kỹ thuật của Phương Tây. Thật sự không phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ yếu là người Nhật học hỏi những tinh túy về tư tưởng của người Tây Phương để khai sáng trí tuệ cho dân tộc của họ.
                        Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm cho người Nhật thức tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta, kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm nay đã có hàng trăm ngàn quả bom đã rơi xuống đất nước Việt Nam, không những chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm hồn dân tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của một dân tộc nhược tiểu. Nhưng tất cả những nỗi đau đó vẫn chưa đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy cần phải có một nhu cầu thay đổi cần thiết như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.
                        Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến xăm lăng đất nước VN, trước đó vào mùa thu năm 1847 để phản đối chính sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của Việt Nam, năm 1842 Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến Nha Phiến. Nhưng tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa đủ để làm cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn không nhận ra rằng đất nước đang đứng trước khúc quanh của lịch sử. Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho đến 1858, đó là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu các vua nhà Nguyễn thức thời, khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải chịu 80 năm đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa Cộng Sản kéo dài đến hôm nay.
                        Phạm Hoài Nam
                        – — –
                        Ghi chú:
                        1. Ngoại trưởng Nhật Seiji Maehara từ chức ngày 6 Tháng Ba 2011 vì nhận 600 Mỹ kim cho quỹ chính trị từ một người ngoại quốc.
                        2. Dân số Do Thái vào thời điểm 1967 là 2.7 triệu người.

THƠ ĐƯỜNG : XƯỚNG HOẠ

Tuổi Đời
Tuổi đến hôm nay chẳng thấy thừa
Cuộc đời chữ nghĩa vẫn như xưa
Hè về sách vở khó mà chán
Thu đến thi văn thật dễ ưa
Non nước hữu tình chưa thấy đủ
Trăng sao tri kỷ mấy cho vừa
Trời cho mạnh khỏe thì vui sống
Bỏ mặc ngoài song chuyện nắng mưa.
Sóng Việt
29 tháng Sáu 2011

Tuổi Trời
Ngày trời tháng phật có đâu thừa
Sức khỏe, dáng hình dẫu khác xưa
Xuân đến nhìn hoa không thấy chán
Hè sang nắng ấm cõi lòng ưa
Thu về man mác thơ nào đủ
Đông lại thương quê mấy chẳng vừa
Hiện tại, chốn này chân thật sống
Thân như sương sớm, ráng sau mưa!
Lộc Bắc
Canada Day


Xin cảm ơn DS Nguyễn Trong Lộc đã có hứng họa bài thơ, với tất cả chữ cuối đều cùng chữ. Bài thơ có ý nghĩa.

SV có chút hứng làm thơ DDường vì cảm hứng từ cuốn sách thơ Kỉnh Chỉ (Kỉnh Chỉ là một vị Bác sĩ, ông ngoại của một người bạn Trung học). Kỉnh Chỉ hầu như toàn làm thơ có niêm luật, và rất hay. THơ nói vế nhân tình thế thái, bạn bè thân sơ với sự trang trọng và quý mến.

Nhưng hình như hiện nay, phong trào làm thơ trào phúng thơ đuờng dung tục đã là cái nghiệp dư cho một vị số thích làm thơ, điều này đã làm mất cái thanh nhã của thơ DDuờng, đáng tiếc thay!

Sóng Việt chia xẻ thơ với quý đồng nghiệp trong diễn đàn chuyên môn mà thôi, tuy nhiên xin cảm ơn nếu bị chuyển ra ngoài nhưng thật không cần thiết.

SV

Chị Đàm Giang thân
Tôi mới đọc xong vài bài viết về nhà thơ Kỉnh Chỉ, Bác Sĩ Phan văn Hy (1880-1970). Thơ của cụ rất nghiêm túc, rất đáng đọc.
Đọc xong làm thêm được bài họa như sau, xin gởi chị và anh Tịnh đọc chơi nhân tuần lễ mới.
Thân
NTL

BÁ NHÂN…
Bằng hữu hiếm hoi chẳng có thừa
Dễ gì đông đủ được như xưa
Kẻ cho thanh thoát, thơ không chán
Người phải phong lưu, thế mới ưa
Cựu chỉ chân phương là thấy đủ
Tân bày đủ thứ cũng chưa vừa
Làm sao hòa hợp cùng vui sống?
Dọn cỗ, chia mâm khỏi gió mưa!
Lộc Bắc
03/07/2011

Chị Đàm Giang nhận xét rất đúng về bài họa của anh Lộc, làm cho nhà thơ cao hứng họa thêm một bài thật độc đáo nữa.
Bắt chước anh Lộc, tôi cũng xin góp một bài:

XƯỚNG HỌA
Tham gia xướng họa hẳn không thừa
Bạn mới chan hòa với bạn xưa.
Trọng Lộc họa thơ không thấy chán,.
Đàm Giang phóng bút chỉ thêm ưa.
Hồn thơ lai láng sao cho đủ,
Cảm xúc trào tuôn mấy mới vừa.
Bằng hữu thân tình, vui cuộc sống
Cho đời tươi thắm, nắng hay mưa.
Tịnh Phan
05-07-2011