Contact

Contact Us: chu.duong@gmail.com

12/28/2011

LỜI CÁM ƠN CUỐI NĂM 2011

Cựu Sinh Viên Dược Khoa Sài Gòn Blog
chân thành cám ơn sự thăm viếng trang web
mỗi ngày cùa quý anh, chị đồng môn và thân hữu
Cám ơn việc đóng góp bài vở, thơ, tài liệu... giúp
cho Blog thêm phong phú hơn.
HAPPY NEW YEAR 2012

12/16/2011

CHÚC MỪNG GIÁNG SINH & NĂM MỚI 2012


Image and video hosting by TinyPic

Image and video hosting by TinyPic




Nhân dịp mùa Giáng Sinh và Năm Mới 2012, Cựu Sinh Viên Dược Khoa Sài Gòn Blog kính chúc quý anh chị đồng môn và gia quyến

MÙA GIÁNG SINH AN BÌNH
NĂM MỚI AN KHANG, HẠNH PHÚC

11/24/2011

HAPPY THANKSGIVING


MySpaceGraphicsandAnimations.net

KÍNH CHÚC

QUÝ ANH CHỊ 
CỰU SINH VIÊN DƯỢC KHOA SÀI GÒN
&
GIA ĐÌNH

Hưởng một mùa LỄ TẠ ƠN
thật AN LÀNH và HẠNH PHÚC


                                               Chư Dương & Gia Đình

11/05/2011

THƠ HỒNG HẠNH


MẸ VỀ QUÊ

Mẹ biết đó con luôn cần có mẹ
Lòng rất vui khi gọi tiếng mẹ ơi
Ôi ngọt ngào vang dội cả tim côi
Phiền chút đỉnh, xin mẹ đừng bắt tội

Sau sinh nhật mẹ về quê viếng mộ
Của ông bà nội ngoại cả hai bên
Đất Châu Hòa vẫn nghèo đói triền miên
Cái ăn cái mặc chưa bao giờ đủ cả

Mẹ thường nói sống đừng quên làng xã
Có hơn người thì hơn chỗ từ tâm
Biết nhìn mình thì phải biết nhìn quanh
Nhịn ăn nhịn mặc giúp người khốn khó

Con vẫn nhớ nhưng riêng con cũng khổ
Bệnh tật dài lâu phiền mẹ, chồng, con
Nhưng cũng may còn có mẹ giúp con
Mỗi năm một bận, đi về cứu trợ

Mẹ lớn tuổi nhưng còn duyên hạnh ngộ
Thăm gặp bà con giúp đở xóm làng
Con gởi lời kính chúc Tết bình an.
Cám ơn mẹ, vì con còn có mẹ.

HH 5/11/2011

10/31/2011

Thơ DS HỒNG HẠNH



Thân tặng các bạn Dược Khoa Việt Nam

DƯỢC KHOA VIỆT NAM

Tưởng rằng dâu bể thì thôi
Ngờ đâu tan hợp lẽ trời là đây
Cho nên còn có vui nầy
Trang Thơ Trường Dược sum vầy với nhau
Nỗi riêng dù có niềm đau
Nỗi chung xin giữ trước sau nghĩa tình
Dược Khoa Khoa Dược Của Mình.

HH 29/10/2011

THƠ DS HỒNG HẠNH

Cảm hứng khi đọc bài THÁNG MƯỜI MÙA THU  của chị Đàm Giang.
NỬA VÀNH TRĂNG THU

Thiền đây tâm ở nơi đâu
Bao giờ mới hết dãi dầu tấm thân
Tháng mười thu giọt ngoài sân
Lá xanh đổi sắc tần ngần tiếc xuân
Mày kia ai vẽ trắng ngần
Đem treo trên đỉnh non thần xa xăm
Nửa mày còn lại biệt tăm
Mang mang vũ trụ cát lầm phương nao
Ngoài kia có tiếng lao xao
Dường như gió gọi lá vào đầu thu
Ngọn đèn vàng vọt tù mù
Soi sương hay cõi nữa phù nữa sinh
HH  29/10/2011

10/01/2011

THƠ DS HỒNG HẠNH



Subject: Kính tặng anh chị bài thơ QUỲNH NHƯ

                                       QUỲNH NHƯ 

Quạnh quẽ đêm nay độc ẩm trà
Chờ xem quỳnh nụ nở ra hoa
Ô long thấm giọng khan tình nhớ
Sưởi ấm đầu xuân cái tuổi già

Người đẹp từ đâu đó bước ra
Chao ôi duyên dáng lẫn kiêu sa
Bờ môi phơn phớt son hồng nhạt
Đuôi mắt cong lay láy mượt mà

Ta hỏi người xưa ấy phải không?
Hay là tiên nữ chốn cung hằng
Trong sương trong khói hư như thật
Thân gái dặm trường ta bâng khuâng

Trăng khuya cô tịch tiếng chuông ngân
Văng vẳng xa đưa tiếng sóng thầm
Quỳnh Như thôi nhé cô em gái
Trong phút giây mà đẹp vô ngần

Đặng Hồng Hạnh DK72

9/26/2011

PHO

Phở thiên biên ký sự.
clip_image002

Tái chín nạm giò vè, tiêu ớt rau thơm giá sống, Sách gầu gân mỡ sụn, tương chanh nước béo hành trần.

Bác Giáo lõ mắt dòm tôi với bát tái chín nạm giò vè mà tôi sắp sửa tỉ tê trên giấy trắng mực đen, bác ra ý muốn hỏi han câu mào đầu phở bò của miền Nam trên đây là của ai. Dạ, cũng xin thưa với bác rằng câu đối ấy là của Thầy Khóa Tư Trần Lam Giang, cũng là một hương sư Hán văn cùng thời với bác. Chuyện là hồi nhỏ thủ vai trà đồng, thầy khóa hóng chuyện các cụ. Nghe được thân phụ là quan đốc học tỉnh Hải Dương cám cảnh tuổi già hiu hắt lúc này của bác và tôi bây giờ nó hình thù cổ quái như thế này: “Trên thì móm mém nhai không vỡ – Dưới lại chun choăn nhét chẳng vào”.

Răng lợi bây giờ của bác và tôi cái mất cái còn, ăn quán ngủ đình đã quen thói, chỉ có bát phở không người lái, dăm sợi bánh chun choăn là xong tuốt. Nói không ngoa chứ tôi có thể khua môi múa mép với bác rằng: tôi là người tập tễnh sơi phở từ cái thuở còn mặc quần thủng đít, lại được ăn phở Hói, phố Bà Triệu. Nói cho ngay từ tấm bé, theo chân bố tôi cưỡi ngựa xem hoa đấy thôi, chứ tôi biết quái gì với nước béo hành trần. Chỉ biết rằng nghe qua bố tôi kể lại, khách vãng lai có…lai vãng đến tiệm ông đừng hòng hỏi đến chanh và tương đỏ, để rồi khách Hà Nội nghìn năm văn vật biết tiệm ông từ cái giai thọai đầy biền ngẫu ấy.
Bác gãi gãi vầng trán nhẵn bóng thầm hỏi…”ông Hói là ai?” Tôi cũng đành vay mượn môt mảng văn chương chữ nghĩa của cụ Nguyễn Tuân trong tùy bút “Phở” rằng: tên hàng phở cũng có nề nếp của nó là tên người bán phở. Trông mặt đặt tên với phở Gù, phở Lắp, phở Sứt hay địa linh nhân kiệt của ông hàng phở là phở Nam, phở Hà, phở Cầu. Tất cả bằng vào một chữ…nhất tự thiên kim. Chứ những cái tên hàng phở với Đào nương hay Thùy dương, bác chớ có dại mà lần vào, chắc như cua gạch là chỉ thấy mấy cọng hành trôi lềnh bềnh như….thuyền ra cửa biển ấy thôi.
Ấy vậy mà bát phở nhiều bánh ít thịt hao tốn chữ nghĩa của thiên hạ không phải là ít. Thảng nhắc đến hai chữ đào nương tôi lại muốn tung tẩy về thập niên 40 với truyện tiểu thuyết “Anh hàng phở lấy vợ cô đầu”. Trong truyện, cô ả đào về già than thân trách phận rằng: “Đời hồi này như một bát phở bánh chương lềnh bềnh, mỡ nguội đóng váng…”.

Vay mượn cái tình của anh hàng phở, lại nữa, bác và tôi đang vật vã với cái tuổi lá vàng, nào có khác gì với nàng kỹ nữ về già. Chưa hết, trôi sông lạc chợ lại nhớ cây đa bến cũ, xin mạo muội thưa với bác rằng món ăn đương đại này, chẳng chóng thì chầy cũng nguội ngắt, chương phình theo đàn con cháu ở bên này. Vì vậy tôi rị mọ với bát phở, vẽ rết thêm chân cũng có cớ sự cả, thưa bác giáo.

***
Muốn có đầu có đũa về phở phải quang gánh trở về với những nhà văn tiền chiến một thời…toả khói trong văn chương cùng cái thú ăn phở. Các cụ đã dùng hết chữ như Thạch Lam với: “Chả có gì ngon hơn bát phở”. Nguyễn Tuân sành phở cùng nỗi nhớ của kẻ xa thổ ngơi, bản quán: “Trong cái nhớ nhà có cả một sự nhớ ăn phở”. Nhà văn Vũ Bẵng ví phở bò như: “Một chàng trai mà hào khí bốc lên vùn vụt” còn phở gà như: “Một nàng con gái thanh tân”. Qua Vũ Bằng phở có tình tự trai gái, chuyện rằng: sau xa Hà Nội vài năm, thèm phở, bèn ghé tiệm phở quen mà hai vợ chồng bạn làm chủ, thấy vợ bạn đeo khăn tang, hỏi ra mới biết bạn mình đã ra người thiên cổ. Trong lúc chờ đợi …lửa tắt nồi khô nước, lại quán vắng chiều hôm. Vì là chỗ thân quen, sẵn có máu lãng đãng trong người cùng gái đọan tang, gà mái ghẹ nên tác giả 40 năm nói láo đã…thở khẽ ra một câu đối rất tình và cũng rất…phở :
Nạc mà chi, mỡ mà chi
Sao cứ ỡm ờ không tái giá

Câu đối này lưu lạc vào trong Nam được biến thái giữa một bà hàng phở cũng là góa phụ và một ông khách đang ở cái tuổi muối tiêu mà muối nhiều hơn tiêu như sau:
Nạc mỡ nữa làm gì, em nghĩ “chín” rồi,
đừng nói với em câu “tái giá”
Muối tiêu không đáng ngại, anh còn “gân” chán,
thử nếm cùng anh miếng “gầu” dai *

Chuyện hàng quán đầy rẫy với cô hàng nước, cô hàng cà phê. Thì riêng phở chẳng kém, thừa mứa với những…gái góa đầy mùi phở, thế nên mới rách chuyện như ở trên. Chuyện thêm nữa là trong cái ngõ ngách của chữ nghĩa, về gốc gác của phở, cụ Tản Đà trong bài “Đánh bạc” viết vào khỏang 1915-1917 có đọan: “Trời chưa sáng, đêm còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có, hết cũng chưa chắc không. Tất cả lúc đứng dậy ra về, còn gì mới là được. Có nhẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức ăn nhục pho”.

Cụ Nguyễn Tuân trong tùy bút Phở cũng bàn góp chữ nghĩa thánh hiền cho phải đạo nho gia: “Người ta bảo chữ phở xuất xứ từ chữ “ngưu nhục phấn” và ta đã Việt Nam hóa chữ “phấn” thành chữ “phở”. Chữ phở nguyên là một danh từ, còn chuyển thành hình dung từ qua cái mũ “phớt” của Tây mà ra…cái mũ phở của Ta. Mà cái mũ dạ ấy đã méo mó mất cả băng, rách cả bo, đặt lên đầu ai không chỉnh, hình như đặt lên đầu bác phở xe có một ý nghĩa biểu tượng là người nấu phở ngon, nếu không ngon cũng phải là ăn được…Chữ nghĩa của Ta hay thật ”.

Cùng 1000 năm đô hộ giặc Tầu, 100 năm đô hộ giặc Tây với tinh thần hướng ngọai thâm căn cố đế thì qua Tây, đụng bát không bằng chém thớt, có một số nguời chém to kho mặn cho rằng vì nồi “súp” của người Pháp nấu trên lửa nên được gọi là “pot au feu” qua món Bouillabaisse ở hải cảng Marsheille. Họ trộn những đồ ăn còn lại như cá, tôm, sò, hến thành một món súp nổi tiếng của miền nam nước Pháp sau này. Các bồi bếp người Việt cho Tây cũng theo cách thức “tả pí lù” ấy, thấy nước súp còn dư thừa, họ mang về chế biến đãi người thân, bằng cách thái thịt bò và bánh cuốn mỏng cho vào, để hợp với khẩu vị người Việt, họ thêm ngũ vị hương là đại hồi, tiểu hồi, nhục quế, xuyên tiêu với hành ta, gừng cho át mùi bơ béo ngậy. Theo thời gian, món súp này…bắt lửa cái tên từ “feu” ra…“phở”. Chuyện cứ như…thật ấy, thưa bác giáo. Bác ngáo ệch dòm tôi…Dào, như trên đã thưa gửi nào tôi có hơn gì bác. Vì rằng chỉ thấy cái chuyện treo đầu dê bán thịt chó trên chẳng có…”cơ sở văn hóa” gì sất cả.
Thêm một truyền thuyết khác cùng người Tầu cho rằng món ăn này từ phương Bắc mà có, đơn thuần bằng vào ba chữ “ngưu nhục phấn” và phải đợi thêm người Nguyễn Dư, cũng qua điển tích với tranh dân gian. Ông cư ngụ tại Pháp, nghe nhiều người nói và đựợc biết bộ tranh Oger. Tình cờ ông xem được bộ tranh ấy cùng những sinh họat dân gian như buôn thúng bán mẹt thời đó. Nhất là hàng quà gánh “Ngưu nhục phấn” nên ông thích quá đến nổi da gà và phóng bút viết bài về phở. Mà quả tình có….nổi da gà thật, như ông đã đào sâu chôn chặt như ở dưới đây:

Theo tôi, tranh thứ nhất vẽ thùng nước dùng có tên là hàng nhục phấn. Tóm lại, tên ngưu nhục phấn đã có từ đầu thế kỷ 20. Kể từ năm 1943, trong văn học cũng như trong dân chúng, tên phở được tất cả mọi người dùng.
Tấm tranh thứ nhì vẽ một hàng quà. Những ai đã từng sống ở Hà Nội trước 1954, chắc đều nhận ra dễ dàng đây là một hàng phở gánh. Tấm clip_image006tranh vẽ một bên là thùng nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục, bên kia xếp những đồ cần thiết như con dao thái thịt to bản, lọ nước mắm hình dáng đặc biệt, cái xóc bánh phở bằng tre đan treo bên thành, cái liễn đựng hành, mùi. Tầng dưới là chỗ rửa bát, bên cạnh có cái giỏ đựng đũa. Con dao to bản và cái xóc bánh đủ cho chúng ta biết rằng đây là một gánh phở, có thể nói rõ hơn là phở chín. Sực tắc không dùng hai dụng cụ này. Sực tắc nhúng, trần những lọn mì bằng cái vỉ hình tròn, đan bằng giây thép. Còn hủ tiếu? Cho tới năm 1954, đường phố Hà Nội chưa biết hủ tiếu. Vả lại những xe hủ tiếu (xe đẩy chứ không phải gánh) của Sài Gòn cũng không thái thịt heo bằng con dao to bản của hàng phở chín.
Tấm tranh này xác nhận rằng vào những năm đầu thế kỷ 20, ở ngoài Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội, phở gánh do người Tàu bán.

***
Thế nhưng từ gánh “ngưu nhục phấn” để một sớm hai sương hóa kiếp thành gánh phở cũng có tùy theo bá quan bá tính. Qua một đỏan văn của nhà báo Lê Thiệp, một “chuyên gia” về phở khi viết về phở, ông cho hay: ngưu tiếng Tầu vừa có nghĩa là bò, vừa có nghĩa là trâu nên không hiểu là…trâu hay…bò. Nhưng “có khả năng” ngưu nhục phấn là “canh thịt trâu” với bánh bột gạo ở Vân Nam. Ông luận thêm “Một đằng là bánh bột Vân Nam, một đằng là bột cán mỏng sắt thành sợi, khác nhau xa”. Đụng đến thịt bò, nhà báo chắc như bắp luộc: “Nói gì thì nói, Tầu xào nấu danh bất hư truyền với thập bát môn võ nghệ, món nào cũng “hẩu lớ”, ngay cả tả pí lù. Thế nhưng trừ món…thịt bò. Ăn cơm Tầu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật. Ở đâu có khói ở đó có một tiệm Tầu nhưng bói bẩy ngày không ra một món thịt bò nhai được trừ….bò xào. Nhà báo hỏi một đầu bếp người Việt gốc Hoa chuyện…khó nhai ấy. Ông hỏa đầu quân này ngẩn ra và gãi đầu rằng: “Bên Tầu không có…bò, chỉ có trâu và gọi trâu ta là “thủy ngưu”. Có thể từ khởi thủy, trâu là gia súc cho đồng áng, chỉ được hạ thịt khi quá già…”.
Bác là người ăn phở mẻ bát thiên hạ, bác nghĩ sao về chuyện một ông Tầu già bắt một mớ thịt trâu cũng già không kém, nghĩ…”hẩu xực”. Bèn quăng vào nồi, gánh qua ải Nam Quan cho người An Nam ta…thực bất tri kỳ vị. Ấy đấy, nào có dễ sơi như Tôn Ngộ Không, nhúm một nắm lông thổi phù ra…”phở” thì gần như chuyện…phong thần. Với món thịt trâu, người Việt ta chỉ độc có món luộc. Nước luộc trâu, vì chẳng phải là sáo vịt hay nước lèo heo, lại ngâm với bánh bột nổi lềnh bềnh, chưa ăn đã ứ lên đến tận cổ. Chém chết chẳng ai..”quởn” với chuyện ruồi bu chế biến thành phở này kia, thưa bác.

***
Cầm cái ống vố, bác bập bập dăm hơi, ra cái điều chuyện gì mà xơ như nhộng xác như vờ và chỉ có vậy thôi ư. Dạ, thưa không, ngoài câu đối phở đã góp phần đưa phở vào văn học nước nhà, “thơ phở” qua Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu:
Phở là đại bổ, tốt bằng mười thuốc Bắc
Quế, phụ, sâm…nhưng chưa chắc đã hơn gì
Phở bổ âm dương, phế, thận, can, tì
Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch

Với “văn phở” của Vũ Bằng: “Nước  dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái  cay  của  hạt tiêu, cay cái cay của ớt. Thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ  cái  thơm  của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu  cái  thơm  của thịt bò tươi và mềm, rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành êm dịu, ngọt một cách thành thực”.

Và Thạch Lam: “Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu dòn chứ không dai, chanh, ớt với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa”…
Đến Nguyễn Tuân: “Mùa  nắng  ăn  một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt lưng, thấy như  giời  quạt  cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm tươi lại….“.

Thêm mắm thêm muối cùng bài viết nào đó dàn dựng qua hương hồn hai cụ Nguyễn Tuân và Vũ Bằng. Hai cụ …thần phở như hai bóng ma hiện về với một đọan văn qua một hàng phở xe bên hè phố :
“…Ông hàng phở Nam Định vốn dĩ mặt mũi tóat ra cái vẻ khinh đời khinh bạc, nhận ra người muôn năm cũ, tự tay mang ra bàn một đĩa ơt mỏng, chai tương ớt hồng tươi, vài miếng chanh cốm xanh non. Đáp lại cái nhìn mời hàng, ông Vũ gọi một bát tái gầu, ít bánh, nước trong và chẳng thể thiếu đĩa hành giấm. Còn ông Nguyễn, chẳng cần phải hỏi, bao giờ ông cũng nhất bái nhất bộ với phở chín. Trước mặt hai ông khách quen, như một nghệ nhân với nghệ thuật vị nhân sinh, ông thoăn thoắt lật đi lật lại miếng thịt chín trên cái thớt gỗ đã đóng mủn và nhanh tay thái. Đúng ra là ông nhấn chứ không cắt với chiếc dao phay to bản. Thỉnh thỏang ông nhúm một tí thịt tái, trải ra rồi dùng sống dao dấn nhẹ lên làm như miếng thịt sẽ mềm ra không bằng. Sau khi ông nhúng bánh phở vào cái thùng nước sôi nghi ngút khói, dùng cái vợt hứng ru rũ những sợi bánh phở cho ráo nước. Ông bốc thịt vào bát, thuận tay ông nhởn nhơ nhúm bó hành lá xanh ngắt, đọt trắng tươi treo lủng lẳng ở thanh song bắc ngang thành xe, bó hành hoa xén lóang một cái là được một vốc và trải dài trên bát phở. Xong hai bát phở như hoàn tất một tác phẩm nghệ thuật, ông lừng khừng quơ hai đôi đũa sô lệch mà đầu đũa đã thâm xì trong cái giỏ tre treo ở cái cột xe, trong ấy lỏng chỏng những cái thìa nhôm nhếch nhác, đã lên nước nhạt thếch như…một món đồ cổ.

Phở cho hai ông phải bầy ra bát chiết yêu, miệng trên loe rộng, nhưng phần dưới thắt lại nhỏ xíu, tặc một cái là xong, một lùa đến hai lùa là nhẵn thín. Bát phở bốc khói nghi ngút, hít, nhìn, ghi nhớ và ăn, ăn mà tưởng như chưa ăn, như ăn một giấc mơ hoa. Mà như hoa thật, ông Vũ tẩn mẩn ngắm bát phở ra dáng như ngắm một bức tranh thủy mạc đầy mầu sắc, bên trong vành sứ lấp ló một tí trắng nõn của bánh, xanh đậm của hành ta, trắng ngần của hành hoa, vào cọng rau mùi làng Láng vênh lên như những nét vẽ mầu đậm nét quệt hơi quá tay, điểm một tí đỏ của ớt xăt mỏng như những nét chấm phá . Ông nhẩn nha từng miếng thịt tái ngọt lịm, từng lát gầu mầu trắng đục, những vân vàng nhạt chạy vòng vèo trông đẹp ra phết. Mà gầu luộc đúng mức thì mỡ tiết ra gần hết, trong suốt dẻo quẹo, nhai một miếng như dính vào hết kẽ răng, cái ngầy ngậy giòn giòn của miếng gầu nhưng cái vị béo thơm còn nguyên của một con bò đang sung sức.
Ông Nguyễn khẽ cúi đầu xuống hít nhẹ, cái hơi khói lởn vởn nhẹ nhàng chui vào lục phủ ngũ tạng. Khó mà tả nổi cái hương thơm lạ lùng của phở, phảng phất như hoa chanh, hoa bưởi, không có gì nổi bật lên mà trộn lẫn hài hòa giữa rau mùi, gừng, hành. Như người điểm nhãn, ông mầy mò rắc chút muối tiêu, lấy cái thìa nhôm, từ từ trang trọng ông gạn chút nước dùng trong veo và nếm…Tiếp, ông dùng đũa lắc nhẹ những cọng bánh phở lơi ra với những thứ khác, bánh phở trong cái bát chiêt yêu bé con con ấy được thái bằng tay, dẻo mà không dai, thoang thỏang mùi thơm của hương gạo, làm bật lên cái thơm tho đậm đà quyến rũ của những lát thịt chín thái mỏng nhưng to bản, mầu nâu sẫm của lát thịt chín, khác với bát phở của ông Vũ, nổi bật lên trong bánh phở, cái nõn nà của củ hành trần, hành hoa, át hẳn những lát ớt đang dấu mặt ẩn nấp. Ông lặng lẽ cúi đầu xuống bát phở, kính cẩn và trang nghiêm như người hành lễ, như một thiền sư đi tìm chân như trong đạo giáo vô thường của…đạo phở.

Chẳng thế mà khi ông Nguyễn và ông Vũ đang đắm chìm trong hương khói nhang đèn của bát phở, bỗng một người khách sớm khác xuất hiện. Thọat nhìn, có thể biết ngay là người ăn xin. Người này dừng lại bên hàng phở xe và giữ một khỏang cách không quá xa, nhưng cũng không quá gần để làm phiền lòng hai ông. Đang lúc cao hứng, ông Nguyễn vui vẻ gọi ông hàng phở: “Hỏi ông ta ăn gì, bác làm cho ông ta một bát”. Ông hàng phở chưa kịp mở miệng, người ăn xin đã chắp tay: “Dạ thưa cám ơn hai cụ. Thưa con đủ rồi ạ”. Nhòm bát phở, người ăn xin tiếp: “Đứng ngược gió mà ngửi thấy mùi phở, ấy là phở ngon đấy thưa hai cụ”. Vừa nghe giọng nói, ông Nguyễn giật mình súyt đánh rơi đôi đũa. Ông nhận ra giọng nói quen quen, như thể lão ăn mày năm xưa đến xin một bình trà. Ông Vũ thật thà hỏi: “Đã ăn lúc nào mà đủ, mà đứng ngược gió ngửi được mùi thơm thì ông quả là…”. Người ăn xin đáp: “Dạ thưa cụ nói hơi quá..” và tiếp: “Dạ thưa con nói khí không phải, xin hai cụ xá tội cho. Như xưa kia hai cụ là bậc thầy về phở, nhưng…”. Ông Nguyễn xong bữa, cầm đũa quẹt ngang miệng để chùi và gắt nho nhỏ: “Cái nhà anh này hay chửa, cứ nói đi, có chết thằng Tây đen nào đâu ”.
Người ăn xin chậm rãi: “Như con đã thưa với hai cụ vừa rồi, trên đời không ai hiểu phở bằng hai cụ. Nhưng hai cụ có ăn mới biết ngon dở. Còn con chỉ ngửi mùi cũng biết. Đó là cái mùi gây bò, cái mùi nồng nồng và gây gây một chút như điểm sương của sá sùng. Thưa hai cụ, phở mà không có sá sùng, không thảo quả thì có khác gì canh thịt trâu của ngưoi Tầu. Dạ, có phải thế không ạ. Có anh hàng phở dối khách dùng mực nướng thay cho sá sùng, chỉ lừa được kẻ thực bất tri kỳ vị. Lại có anh dùng su su để tăng thêm độ ngọt, thưa cũng chỉ qua mặt được người trần mắt thịt ăn cốt lấy no.
Hướng về cụ Nguyễn, người ăn xin chậm rãi: “Đến chuyện chữ phở, cụ cho biết có người nói chữ ấy từ ngưu nhục phấn mà ra. Hóa ra phở có nguồn gốc Tầu hay sao? Hòan tòan không phải thế, thưa cụ! Tỉ như cái củ gừng kia, con đọc thấy có can khương sinh khương, nhưng tuyêt nhiên chẳng tìm thấy gừng nướng. Thưa, cái củ gừng nướng, cái con sá sùng nó khẳng định là phở dứt khóat là của Ta đấy ạ”.
Người ăn xin ngập ngừng: “Ấy thưa hai cụ, nước dùng của hai cụ bữa nay, đã kém một tí sá sùng, lại thêm cái củ gừng nướng hơi bị non, thưa hai cụ”.
Chắp tay xá môt cái, người ăn xin khua gậy đi về phía cuối phố. Người xin trà. Người xin phở. Thời nào mà chẳng có kỳ nhân, ông Vũ và ông Nguyễn bảo nhau thế. Ông hàng phở đưa cái đèn 60 watt tới bên thùng phở, săm soi lây cái môi vớt lên mấy củ gừng, hóa ra quả là gừng có non thật. Trời đã sáng, hai ông lặng lẽ rời xe phở.
Khách kẻ trước người sau lục tục kéo tới, họ xúyt xoa với bát phở nóng hổi trong tay, họ chẳng biết chuyện gì sẩy ra trong một ngày thiên địa tù mù …”.

clip_image008
Khách đứng xếp hàng tại Quán phở Gia Truyền đường Bát Đàn – Hà Nội

***
Thiên địa tù mù thì những bài viết về phở cứ ối ra cả đấy, so bì vơi những món ăn cổ truyền khác, phở sinh sau đẻ muộn nhưng núp bóng nhà thơ, nhà văn, phở đã khật khưỡng đi vào văn học sử nước nhà. Vì vậy trong những giây phút yên sĩ phi lý thuần, thi nhân nhìn bát phở như một người tình và nhả ra thơ cùng cũng chỉ là chuyện tất nhiên của đất trời. Rồi con đường tình ta đi, rồi ra phở cũng đã len lỏi đi vào ngõ ngách văn học dân gian trong chuyện đời thường, cùng những người dở hơi dở hám, chán cơm nhà quà vợ như chán như cơm nguội, để có câu chán ăn cơm nguội thì ăn…phở. Chẳng nhờn môi nói chữ, bác cũng biết thừa mứa là “phở” đây hiểu theo nghĩa là rồi ra “Vợ cả, vợ hai – Cả hai đều là…vợ cả”. Hay lang thang với chữ nghĩa, dựa hơi theo cụ Nguyễn Tuân thì quả tình, chữ nghĩa của Ta hay thật, thưa bác…


Bác bụng bảo dạ, chán mớ đời, chuyện chẳng ra chuyện, lại quàng xiên qua phở Nam Định với phở xe. Chả ai biết là phở từ Tây hay Tầu. Mà nói dại chứ, cứ theo như người ăn xin trong truyện thì lạng quạng dám của Ta lắm ạ…Cũng đâu đó thưa bác, nhưng tất cả phải nhờ vả đến cụ Cổ Cừ và ông Võ Phiến đang ngồi đợi ở hồi sau.

Vốn dĩ bác là người khăn gói quả mướp ri cư từ Bắc vào Nam, lại đi Tây, đi Tầu, rạch ròi thâm nho cùng những cái tên của những món ăn. Nói rách miệng thời các cụ ta xưa cũng không ngòai xem mặt đặt tên đầy gợi hình, gợi cảm. Ai cũng có thể hình dung ra là món gì thức nấy như bún riêu ốc, cơm hến, cá kho tộ. Là người hòai cổ, bác hòai cố hương về những ngày tháng cũ, tiếng rao của các hàng quà rong. Còn tiếng rao nào buồn thảm bằng “Bánh dầy, bánh g..i..ò..” vỗ vào không gian ắng lặng. Đầu phố cuối ngõ u hòai thêm tiếng “tục tắc” của hai mảnh tre già khô cứng, nôm na là “mì gõ”. Hòa lẫn trong đêm khuya, vẳng lên thảm thiết một tiếng dài, hai tiếng ngắn…“phơ…ơ…ơ…” chả nghĩa lý gì sất, chẳng hình dung từ nào cả. Lại mè nheo theo mũ “feutre” là mũ phở, dám từ cái của nợ này nên món súp ấy được gọi là phở chăng. Trước hay sau, sử xanh chẳng hề ghi chép, nên kẻ hậu sinh cứ như thầy bói mù sờ voi.
Bác nhăn mặt, miệng lâm râm như muốn góp chuyện: Thế đấy, lắm chữ như cụ Nguyễn Tuân đã dậy “Chữ phở xuất xứ từ chữ “ngưu nhục phấn” và ta đã Việt Nam hóa chữ “phấn” thành chữ “phở “. À tôi ngộ ra cái thâm nho của bác rồi, mớ chữ ngưu nhục phấn với sợi tóc chẻ làm tư…Bác luận chứng rằng theo cuốn Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức vào năm 1920 thì chữ phở được giải nghĩa là “Phở do chữ phấn mà ra. Món đó ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò như phở xào, phở tái”. Thế nhưng theo Hán-Việt tự điển của cụ Đào Duy Anh thì chữ “phấn” (với dấu sắc), người Tầu đọc là “phẩn” (với dấu hỏi), người Nam ta gọi là “phân”. Đều có hai nghĩa là “bột” hay là… “cứt”. Vậy theo tôn ý bác, tao nhân mặc khách của cái đất nghìn năm văn học có ăn gan giời, trứng trâu, có ngộ chữ chẳng thể nhái chữ, nhái âm, như cóc nhái kêu ồm ộp từ…“ phẩn ” hay …“ phân ” để gọi là…” phở ” được! Dạ, thưa bác giáo.
Bác dậy chả là cứt trâu hóa bùn là vậy đấy. Chữ nghĩa gì khó nhai vậy, thưa bác?

Lại vẫn con ruồi hồi nãy, vẫn còn đang đang vo ve như trêu ngươi…Bác cầm tập biên khảo về phở của ông Nguyễn Dư, ngỡ bác đuổi ruồi…Nhưng không, bác sửa lại gọng kính, chằm bằm nhìn tấm hình có ba chữ Tầu ngưu nhục phấn đen như mực tầu. Ủa, sao mặt bác hâm hâm như miếng thịt bò tái vậy kìa. Bác nhấp nhổm như gái ngồi phải cọc, miệng bác lầu bầu : “Lạ chửa kìa”. Bác dậy sao? Bác nói ba chữ này không phải là chữ “ngưu nhục phấn” ư?. “Lạ nhẩy”…Giời ạ, sao có chuyện gánh bùn sang ao vậy kìa, hay là bác quáng gà, thưa bác.
Bác chỉ trỏ, rằng nào bác đâu có thấy chữ nào diễn âm, diễn nghĩa là thịt trâu với bánh bột? Bác nặn, véo chữ nghĩa và đằng hắng tiếp :
Với ba cái chữ Tầu trong cái thùng giống cái chậu sứ Giang Tây, theo thứ tự từ trên xuống dưới thì: Chữ thứ nhất nghĩa là “hàng gánh ” chứ chẳng phái là “ngưu”. Chữ thứ hai là “ở trong ”, chứ không phải là “nhục ”. Riêng chữ thứ ba vì nhòe nhoẹt, những nét chữ ngang sổ dọc chẳng hẳn là “phấn” mà hình tượng nửa như là “cái điã” , nửa như “tên một món ăn” nào đó mà bác chịu chết nhìn không ra.
Bác nhướng mắt nhìn tôi…Tôi nhìn con ruồi bay qua như một cơn gió thỏang…Giời ạ! Tôi như gà nghẹn thóc, trăm sự cũng chỉ vì cái tội che đóm ăn tàn theo cụ Tản Đà, cụ Nguyễn Tuân. Nay bị ông Nguyễn Dư bắt cóc bỏ đĩa lúc nào không hay…

***
Con ruồi bỏ đi rồi như…người tình bỏ ta đi với mùa thu chết, tôi mới hú hồn thóat nạn với ba mớ chữ chi, hồ, giả, dã. Mà chuyện ăn uống gì cũng phải có đầu có đũa, hay là bác và tôi hãy lang thang một thời, một cõi với Hà Nội 36 phố phường, với Thạch Lam, người có tâm hồn ăn uống, mới biết rằng đầu năm 1928 ở Phố Mới đã có một hàng phở thành Nam. Bây giờ Hà Nội tràn ngập phở gia truyền Nam Định tức phở Nam. Người ta có thể tìm thấy phở ấy ở mọi ngõ ngách, Hàng Thiếc có Cổ Cừ, Hàng Đồng có Cổ Chát, Lương Ngọc Quyến có Cổ Bình, Trương Định có Cổ Trình, Khâm Thiên có Cổ Chiêu, ngõ Tạm Thương có Cổ Hùng. Theo dăm ba người viết, ngược thời gian cách đây cả trăm năm, sau khi nhà máy dệt Cotonkin Nam Định được dựng lên, những gánh phở rong vỉa hè biến thái từ gánh canh bánh đa cua. Những gánh phở bánh đa sau biến hóa thành bánh cuốn qua Tú Mỡ “Này bánh cuốn, này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ” từ làng Vân Cù phục vụ cho công nhân dệt thời đó. Cũng lại với Hồ Trọng Hiếu “Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả – Phở sơi no cũng đỡ nhọc nhằn”.

Theo cụ Cổ Cừ, cụ bán phở từ năm 12 tuổi và dòng họ cụ có đến ba, bốn đời bán phở gánh, lên Hà Nội mở hiệu phở cũng cả mấy đời. Cụ kể lể làng Vân Cù ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là chính gốc của họ Cù, nhưng vì kỵ húy với ông Thành Hòang nên phải đổi từ Cù qua Cồ. Theo già làng, chẳng ai biết người nẩy sinh ra nghề phở ở đây, chỉ biết rằng từ ông Cổ Hữu Vặng. Vì làng đất chật người đông, nên cụ Vặng là người tiên phong mang theo cái nghề dao thớt bỏ làng nước mà thế thiên hành đạo và kẽo kẹt gánh cái thùng tôn bằng thiếc tây, là nồi nước dùng đun bằng củi, lên Hà Thành vào khỏang năm 1918-1919.

clip_image012
Một tiệm phở Gia Truyền ở đầu làng Vân Cù – Nam Định

Phở Vân Cù có mặt với 36 phố phường, từ phở gánh sang phở xe lâu năm một thời ấy đã âm thầm trở thành những hàng phở, tiệm phở khang trang. Có thể nói tiệm phở đầu tiên ở Hà Nội nằm tại phố Hàng Quạt, ngồi trên phản gỗ trải chiếu rồi qua phố Hàng Đồng mới có bàn, có ghế. Sau lan qua phố Cầu Gỗ, Cầu Giấy, như cụ Cổ Chiêm, ngòai 80 tuổi, người từng bán phở ở phố Hàng Trống từ năm 1942, cụ Cổ Viên từ năm 1954, nay 72 tuổi với đàn con cháu, ai ai cũng có bốn, hay năm mặt hàng trở lên.

Này bác giáo, dẫu rằng cái mũi ở ngay trước mắt, mấy ai đã nhìn thấy…Nhưng không dấu gì bác, tôi cũng có ý hồ nghi với dăm ba người viết về phở gia truyền Nam Định. Ai chả biết tận tín thư bất như vô thư, thế nhưng có đọc, mới thấy lớp lang thời gian như…phở ký cương mục với bao đời truyền tử lưu tôn đời đời kế thế từ Nam Định với cua đồng, bánh đa, bánh cuốn. Lên Hà Nội với thịt bò, bánh phở. Được thể Tú Mỡ vung vẩy “Khách làng thơ, đêm thức viết văn – Ðược bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí…”.
Thêm nữa, qua cách nói chuyện của cụ Cổ Cừ, tôi thấy cụ là người mấy đời uống nước máy Hà Nội, cởi mở nhưng chừng mực, cụ “cù không cười” chẳng dấu diếm bí quyết nghề nhà, rằng cùng với bếp củi cùng một gia vị, không sai một ly, không thiếu một thứ gì, nhưng mỗi tay nghề mỗi khác, một phần ăn thua ở bánh phở. Từ đấy, bây giờ ai chẳng biết qua cầu Đò Quan, rẽ phải 14 cây số là đến làng Giao Cù, Tây Lạc, sát với làng Nghĩa Hưng, Ninh Cơ cùng họ Cồ, họ Vũ. Tất cả 4 làng, 2 họ chuyên làm bánh phở, có thể nói nơi đây là cái nôi của nghề làm bánh phở.
Cụ phân bua, không có lửa sao có khói, làng nghề bánh phở có từ đời tám hoánh nào rồi!. Vậy mà chẳng ai chịu khua môi múa mép lên một tiếng!
Hỏi về “ngưu nhục phấn”, cụ tủm tỉm cười:
“Theo các cụ ngày xưa kể, phở không phải xuất sứ từ người Tầu. Nó từ các gánh quà bán bánh đa cua, thịt lợn, dần dần là thịt bò để thành phở nào ai biết”.
Như để khẳng định điều đó, cụ nói thêm:
“Các ông có thấy Hà Nội từ xưa đến nay, có hàng phở nào người Trung Quốc không? Nói cho ngay thì cũng có đấy, có duy nhất một tiệm của người Trung Quốc tên Nghi Xuân ở phố Mã Vũ nay là phố Hàng Quạt nối dài nhưng là…phở áp chảo.
Cụ đủng đỉnh tiếp:
“Phở là món ăn do người Việt chế ra, hay du nhập từ Trung Quốc? Câu trả lời đã rõ ràng: Phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam. Vì nếu từ Trung Quốc thì tại sao giờ này Trung Quốc không có món phở?
Được giới săn tin hỏi han, an nhiên tự tại, cụ đối đáp vung tán tàn:
“Này xin lỗi ông nhà báo nhá, nói ông bỏ qua chứ cái thùng phở của chúng tôi đâu phải là cái thùng rác đâu mà cái gì vớ được gì mấy ông cũng nhét vào. Như các ông phang lên báo là hồi tản cư…”chạy tóe phở” ra hậu phương, không có bò nên mới có phở gà thì nghe đã bố lếu bố láo rồi. Nay các ông dậy thêm rằng cụ Tản Đà mang phở vào Nam Kỳ qua giai thoại…cụ tự nấu phở là nông tọet, nghe chả ra “nước xuýt” gì sất. Thật ra phở chỉ mới có mặt ở Sài Gòn từ thập kỷ 40, và chỉ gần đây người ta mới tìm ra một chứng nhân của phở. Đó là bà cụ Trần Thị Năm, nay mới….ngoài  80  tuổi  xuân, lưng còng, tóc bạc phơ, ở số 63/5 trong Hẻm Pasteur, sau rạp hát Vinh Quang”.
Các ông nhà báo vểnh tai lên mà nghe chuyện bà ấy kể lể nhá:
“Từ năm 1942, ông bác của tôi là cụ Kỉnh từ làng Vân Đình, Hà Đông vào Sài Gòn  lập nghiệp. Ông bán gánh phở Bắc trên đường Lagrandière tức Gia Long cũ, nay  là Lý Tự Trọng. Mãi đến năm 1949 mới chuyển về đây mở xe phở, tôi còn nhớ lúc đó mỗi tô chỉ có 2 xu, tô đặc biệt 3 xu. Sau đó cụ Kỉnh truyền nghề cho cụ Minh, là anh ruột tôi”.
Cụ nhởn nha tiếp:
Làng nước ạ, các ông biết một mà chả biết hai, ngay như câu đối của cụ Nguyễn Khuyến khóc cụ Tú Xương : “Kìa ai chín suối xương không nát – Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”. Vậy mà các ông cũng quơ cào, đổ vấy cho bằng được là có cụ Nghè nào đó viết để phúng điếu cho cụ tổ nghề phở làng Vân Cù chúng tôi. Nói dối phải tội, cho đến bây giờ chúng tôi cũng chẳng biết cụ là ai để mà ma chay, cúng kiếng… “.

***
Này, bác lóng chóng như ngóng đợi ai đấy? Ắt hẳn là bác nhắc khéo tôi so bát so đũa với ông Võ Phiến chăng? Ừ, nói cho ngay chuyện chẳng có gì. Vì có thể nói, ông Võ Phiến với phong thái cũng như văn phong riêng, viết về những món ăn từng địa phương cùng tình tự dân tộc qua thổ ngơi, nơi chốn, đào sâu chôn chặt với gốc rễ của từng vùng đất cùng bản phố, cố quận. Nào là từ bánh đa Bình Định, xuất xứ từ vua Quang Trung đem quân ra Bắc, đến cơm muối Huế có từ ruộng muối Diêm Trường. Ông nặng về…thâm cứu cùng dân tộc tính nên đã không ngại ngùng phóng bút:
“Ta có thể chịu ảnh hưởng của Tầu về văn hóa, tập tục. Nhưng món ăn thì tuyệt đối không, mỏi mắt tìm không ra một món ăn truyền thống của Ta mà có gốc từ Tầu”.
Ông kết luận chắc như đinh đóng cột là: “ Tầu ăn xì dầu. Ta ăn nước mắm”.

Thêm dị biệt giữa món Tàu và món Ta là món Ta thường ăn với các loại rau thơm. Món nào ăn với rau nấy, chẳng thể bất khả phân ly. Ngửi mùi rau tía tô tự nhiên thấy thèm món bún ốc, ngắt rau kinh giới nghĩ đến bún riêu, nhìn rau mùi, ngò gai bèn nghĩ ngay đến…phở. Đồng tình với xì dầu, nước mắm, thêm nhà báo Lê Thiệp viết rằng:
“Việt Nam chống lại nỗ lực Hán hóa của Tầu từ nghìn năm trước, từ chữ Nho qua chữ Nôm, từ cách ăn mặc đến đầu tóc trong cái nỗ lực đối kháng bền bỉ đó có món thịt bò. Món bún bò Huế không xài xì dầu, bò nướng mỡ chài là một khám phá mới của người miền Nam, bò lụi chẳng được coi là “phó sản” của Tầu. Ngay cả thịt kho tầu cũng vậy, ấy là chẳng phải món Tầu mà là tên xuất sứ từ con kinh có tên kinh Tầu Hũ”.

Nhà báo Lê Thiệp cho rằng trong các món nước phổ thông của người Tầu có hủ tiếu và mì. Như mì vịt tiềm, mì cá, mì Triều Châu, mì Quảng Đông, nước lèo căn bản vẫn là nước lèo heo. Có người vặn vẹo hỏi vậy còn hủ tiếu Mỹ Tho thì sao, phải chăng là “âm bản” của Tầu? Nhà báo lắc đầu với luận cứ: gốc gác của hủ tiếu Mỹ Tho là từ hủ tiếu Nam Vang bên….Nam Vang chứ chẳng phải là ở bên…Tầu.
Qua hai nhà báo, nhà văn trên, bác lặng lờ ra cái dáng trầm tư với cây có gốc, người có cội cùng “Ta về tắm lại dòng sông cũ – Truy tầm mê mỏi lý sơ nguyên ” một cái tên từ đâu mà ra, bởi đâu mà có…Thú thực với bác, tôi cũng ngọng, nhiều khi có những…cái tên không đâu tự trên giời rớt xuống, ông giời cũng chả biết nữa là…
Là xin thưa với bác rằng: Bác là nhà giáo chữ nghĩa đầy người, có bao giờ bác vén đầu gối để nói chuyện và tự hỏi tại sao người trong Nam, heo mẹ, heo con nuôi lôm côm đầy đàn, làm bánh nhét bụng ăn chơi lại nhè kêu…thiệt tình là…bánh da lợn. Để chẳng thể bỏ qua chuyện người Bắc như ông giời, bộ hết chữ đặt tên cho cây hay sao lại lớ ngớ gọi là…cây cơm nguội. Quơ cào qua bếp núc củi lửa, hiểu theo nghĩa là ăn uống thì mắc mớ chi cái bát to trong Nam kêu là cái , ngoài Bắc gọi là cái liễn. Đến cái bát nhỏ, trong Nam kêu là cái chén, ngoài Bắc mắc chứng gì gọi là…bát đàn. Thế nên tôi không dám quàng xiên qua chuyện ở…phố Bát Đàn, Hà Nội có…phở Bát Đàn.
Thôi thì bới bèo tìm bọ cho lắm cũng hao tốn nhiều giấy mực…Nghĩ cho cùng, các cụ ta xưa cũng có lúc há miệng mắc quai với ngôn từ nên gọi một chữ…”phở” cho xong bữa. Liệu cơm gắp mắm, người đi sau cứ tương Bắc tương bần như vậy cho nhẹ mình nhẹ mẩy. Chẳng qua tên phở là như thế đấy! Phải chăng thưa bác giáo?

Thạch trúc gia trang
Phí Ngọc Hùng
Phụ đính:
 Phở đức tụng
 Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu
Trong các món ăn “quân tử vị”
Phở là quà đáng quí trên đời
Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi
Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ
Này bánh cuốn, này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ
Ngọn rau thơm, hành củ thái trên,
Nước mắm, hồ tiêu cùng chanh, ớt điểm thêm
Khói nghi ngút đưa lên thơm điếc mũi…
Như xúc động tới ruột gan bàn phổi…
Như giục khơi cái đói của con tì
Dẫu sơn hào, hải vị khôn bì
Xơi một bát, thường khi chưa thích miệng
Kẻ phú quí cho chí người bần tiện
Hỏi ai là đã nếm chẳng ưa
Thầy thông, thầy phán đi sớm về trưa
Ðiểm tâm phở ngon ơ và chắc dạ
Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả
Phở sơi no cũng đỡ nhọc nhằn
Khách làng thơ, đêm thức viết văn
Ðược bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí…
Bọn đào kép, con nhà ca kỹ
Lấy phở làm đầu vị giải lao
Chúng chị em sớm mận tối đào
Nhờ có phở cũng đỡ hao nhan sắc
Phở là đại bổ, tốt bằng mười thuốc bắc
Quế phụ sâm nhung chưa chắc đã hơn gì
Phở bổ âm dương phế thận can tì
Bổ cả ngũ tạng tứ chi bát mạch
Anh em lao động đồng tiền không rúc rích
Coi phở là môn thuốc ích vô song
Các bậc vương tôn thường chả phụng nem công
Chưa chén phở vẫn còn không đủ món
Chớ khen phở là đồ ăn hèn mọn
Dẫu sao thành Ba-Lê còn phải đón phở sang
Cùng các cao lương vạn quốc phô trương
Ngon lại rẻ phở thường tranh quán giải
Sống trên đời, phở không ăn cũng dại
Lúc buông tay ắt phải cúng kem
Ai ơi, nếm thử kẻo thèm.

*Chú thích : Theo một góp ý của độc gỉa Hùynh Trung Trực nhân đọc bài phóng sự “PHỞ SÀI GÒN XƯA VÀ NAY “ của cố ký gỉa Phan Nghị đăng trên : Văn Hóa Việt Namhttp://son-trung.blogspot.com/2011/01/phan-nghi-pho-sai-gon-xua-va-nay.html ngày January 4, 2011 thì để đáp lại câu đối “phở” (“Nạc, mỡ nữa làm chi, em nghĩ chín rồi không tái giá ” ) “ . . . Đã có ít ra là khoảng 5 vế đáp và từ hàng chục năm nay, nếu ai có dịp đến ăn ở tiệm Phở Xe Lửa của ông Nguyễn Đình Toàn ở Khu Thương Mại Eden, tiểu-bang Virginia thì đều dễ-dàng nhìn thấy hai câu đối này đuợc trang-trọng treo trên tường:
Nạc mỡ nữa làm chi, em nghĩ đã chín rồi, đừng nói với em câu tái giá

Muối tiêu không đáng ngại, lão thấy còn gân chán, hãy vui cùng lão miếng gầu dai .
Ông Toàn cho biết thêm rằng câu đáp trên là của Cụ Bùi Văn Bảo (đã từ-trần 03/1998).”
(Chúng tôi ghi lại ở đây để độc gỉa có thêm chi tiết tham khảo. NK/PNH)
**Nhà văn Khuất Đẩu, đọc xong “Phở Thiên Biên Ký Sự”, hứng khởi đưa ra câu “thách đối “:
Đã hết gân rồi còn tái gía
Ông ước mong nhận được những câu đối lại của độc gỉa khắp nơi. Tất nhiên, câu đối phải dùng những từ chỉ món phở ( như chữ Gân hay Tái Giá trong câu thách ). 

8/01/2011

LÁ LÀNH ĐÙM LÁ RÁCH

Thưa quý Anh Chị,
Chúng tôi được biết 1 nam SV DKSG năm thứ 3, Nguyễn Ngô Hoài Bảo, nam,  quê Darlac, Ban Me Thuộc dự định bỏ học vì hoàn cảnh gia đình túng thiếu , Cha thất nghiệp , Mẹ dạy học phải nuôi Hoài Bảo và 2 em 10t và 3t. 
Em Hoài Bao vừa đi học và đi làm thêm nhiều nên việc học không khả quan lắm và thấy gia đình quá túng thiếu nên định bỏ học về quê giúp Cha Mẹ, thi đậu vào ĐHDKSG rất khó khăn bỏ học dở dang rất là uổng công học bấy lâu nay, nếu SV Hoài Bao châm chỉ học vài ba năm nữa sẽ giúp được gia đình và xã hội nhiều hơn. Do đó chị Phượng đã gặp em Hoài Bao để an ủi và khuyến khích  và chị Liên đã liên lạc với  chị Thoa và chị Liễu, chị Thoa đã sốt sắng nhận giúp, và chị Liễu cũng đã vui vẻ gọi cho biết là sẽ giúp  bảo trợ SV Hoài Bao; mặc dù hai Chị cũng đang ủng hộ chương trình xã hội giúp SV DKSG có hoàn cảnh khó khăn , đau ốm khẩn cấp. Xin cám ơn chị Thoa và chị Liễu .
Chương trình xã hội của nhóm cựu SVDK SG cũng đang bảo trợ giúp cho SV Phú, nữ, quê  ở Pleiku, bị bịnh ung thư nghĩ  học về quê, SV Phú đã được qua giai đoạn xạ trị và đang hoá trị , tình hình sức khoẻ rất khả quan co thể trở vào học năm nay. Trong chương trình giúp SV Phú, chị DS Van Hong o VN đã rất nhiệt tâm vận động các DS ởVN  giúp vào quy này.
Cám ơn chị Thoa, chị Liễu, Van Hong,  chị Liên, chị Phượng và quý Anh Chi
Thân ,
Dương Chư

7/23/2011

HỘI DƯỢC SĨ VN TẠI HOA KỲ

Hội Dược    Việt Nam tại Hoa Kỳ là hội Dược Sĩ đầu tiên được thành lập tăi California, USA.Hiện nay anh Nguyễn Thúc Mẫn là Chủ Tịch của Hội
Hội Dược Sĩ Việt nam tại Hoa kỳ đã được thành lập vào tháng 8 năm 1980, trong một buổi họp, được tổ chức tại Harbor College, Torrance, California, của gần 200 Dược Sĩ Việt nam mới tới định cư tại Hoa kỳ, với sự hiện diện của các cựu Giáo sư Đại Học Dược  Khoa Saigon
Hội đã được thành lập nhằm hai mục đích chính:
Phát triển tinh thần đoàn kết và tương thân tương ái giữa các Dược sĩ Việt nam tại Hoa kỳ, tạo sự liên lạc giữa các Cộng đồng Dược sĩ Việt nam tại các Quốc gia khác: Pháp, Gia nã đại v.v.., tìm cách giúp đỡ các Dược sĩ Việt nam còn ở tại các trại tị nạn Đông nam Á.
Hướng dẫn Dược sĩ Việt nam đi học lại lấy bằng Dược sĩ tại Hoa kỳ hay thi lấy bằng hành nghề Chuyên viên Thí nghiệm Y khoa, hoặc những ngành khoa học khác: Dược học, Hoá học, Vi trùng học v.v.   
Chủ tịch đầu tiên là Giáo sư Tô Đồng .
Chủ tịch hiện nay là DS Nuyễn Thúc Mẫn .
Mời quý Anh Chị vào trang web dưới đây của HDSVN taị Hoa Kỳ để đọc những bài vở chuyên môn, văn nghệ, du lịch của quý vị Giáo Sư và quý Anh Chị DS Việt Nam .

7/08/2011

HỒ LÔ BÁ , FENUGREEK hay METHI

Fenugreek
Hồ lô bá (Fenugreek)
              Gia vị hay Vị thuốc ?
                                                          DS Trần Việt Hưng
 
Tên Hồ lô ba ( do nguồn gốc từ Trung dược) và Fenugreek có phần xa lạ với đa số người Việt trong và ngoài nước, nhưng thật ra rất quen thuộc với những bà nội trợ hay dùng đến bột 'cà ri'. Tại nhiều nơi trên thế giới, Fenugreek không những được trồng để lấy hạt làm gia vị, nhưng còn được dùng làm rau và làm thuốc trị bệnh. Cây cũng được trồng thử tại một số địa phương tại Việt Nam
.
   
Fenugreek được xem là một trong những cây đầu tiên được nhân loại trồng..cây đã được trồng tại vùng thung lũng sông Nile tứ 1000 năm truớc Tây lịch. Các văn bản tìm được trong các ngôi cổ mộ Ai cập đã mô tả cách nấu nướng fenugreek khi dùng làm thực phẩm và cách chế biến cây để làm thuốc (trị nóng sốt). Hạt fenugreek khô đã được tìm thấy trong mộ của Tutankhamen. Hạt cháy khô tìm được tại Tell Halal (Iraq) được định bằng Carbon phóng xạ cho thấy niên đại khoảng 4000 năm (trước Tây lịch) Người Hy lạp và La mã (theo Cato) đã trồng cây để nuôi gia súc, và để làm thuốc. Hippocrates đã dùng fenugreek để trị nóng sốt. Người Ai cập dùng cây làm một trong các hợp chất để xông hương và để ướp xác.
Fenugreek, được ghi trong lịch sử Do thái, như là một..võ khí chống ngoại xâm ! Năm 66-70 Tây lịch, Tường La Mã (sau thành Hoàng đế) Vespasian bao vây thành Jerusalem và ra lệnh cho quân sĩ san bằng bức tường thành. Phương thức phòng thủ của dân Jerusalem là đổ nước sôi hay dầu sôi vào quân xâm lấn dùng thang trèo lên mặt thành và theo Sử gia Flavius Josephus thì người Do thái đã thêm dầu fenugreek vào nước sôi để gây tăng thêm sự..trơn trợt cho quân La mã.. 
   Fenugreek có nguồn gốc tại những vùng quanh Địa Trung hải và Tãy Á. Cây được các tu sĩ dòng Benedictins đưa về Trung Âu từ thế kỷ thứ 9 và Charlemagne (812) đã cổ võ việc sử dụng cây này. Cây cũng được du nhập vào Trung Hoa từ thời nhà Tống (1057 tây lịch).
Phụ nữ Ả rập, từ Libya đến Syria ăn hạt fenugreek rang để tăng cân và giúp tạo thân hình thẩm mỹ theo trường phái Ruben (cho đến thế kỷ 19, thân hình phụ nữ được xem là đẹp cần phải phát triển, nẩy nở và đều đặn nhất là các phần hông..). Các vị 'chủ nhân' của các harem ăn hạt để làm thuôc kích thích tình dục (aphrodisiac) , hiện nay tại nhiều nơi trong thế giới Ả rập vẫn xem hạt fenugreek như một vị thuốc kích dục (?). Các bà mẹ nuôi con tại Ethopia ăn thêm fenugreek để giúp có nhiều sữa..
 
 
Tên khoa học và các tên gọi khác :
Trigonella foenum-graecum thuộc họ thực vật fabaceae.
Tên Anh-Mỹ khác Greek hay, Bird's Foot
Pháp : Fenugrec ;  Đức :Bockshornklee ; Tây Ban nha : Alholva ; Ý : Fieno Greco; Nhật : Koroha
Tên Ấn độ : Methi, Methi saag ; Phạn : Methika
Tên Trigonella,do tiếng Hy lạp có nghĩa là có 3 cạnh, do hình dạng của hoa. Tên Anh ngữ Fenugreek, do 'foenum-graecum' , tiếng latinh có nghĩa là rơm Hy lạp : cây đã được dùng để trộn thêm các rơm rạ có phẩm chất kém để tạo mùi thơm. Trước đây tại Hy lạp, fenugreek được trộn vào các rơm rạ bị mốc hay bị hư hỏng do côn trùng phá hoại, giúp rơm trở thành..dễ ăn hơn, và hơn nữa trong thiên nhiên trâu bò và ngựa khi đau ốm chỉ chịu ăn fenugreek.

Đặc tính thực vật : 
Cây thuộc loại thảo hằng niên, có thân tròn không lông, mọc thẳng đứng, có thể cao 60-80 cm, rễ phát triển. Lá mọc so le, có mang 3 lá chét (lá phụ) xoan ngược, dài 1.5-2 cm, rộng 0.5-1 cm. mép lá có răng cưa ở phân nửa phần trên, phiến có 4 đôi gân phụ. Lá có cuống ngắn 4-6 mm. Hoa màu vàng nhạt hay trắng, mọc ở nách lá, đơn độc hay từng đôi. Tràng hoa dài gấp đôi đài hoa. Quả hình trụ thẳng, hơi cong, dài 10-12 cm, rộng 4-5 mm, có mỏ nhọn ở đầu, chứa 10 đến 20 hạt. Hạt màu nâu sáng, hay vàng-nâu, hình thoi, dẹp, rất cứng (3x4 mm), nhiều cạnh, có mùi thơm. Cây trổ hoa vào các tháng 4-6 và ra quả trong các tháng 7-8..
Fenugreek thuộc loại có chu kỳ sống ngắn, có thể thu hoạch sau 3-4 tháng gieo trồng và mỗi năm có thể trồng xoay vòng đến 3 lứa.
Các nước xuất cảng feugreek hiện nay là : Ấn độ, Pháp, Lebanon, Ai cập và Argentina.
 
*    Thành phần hóa học :
Thành phần hóa học của hạt fenugreek :
Chất nhày (2.5-45 % gồm các  mannogalactans)
Chất đạm (25-30%) trong đó có các amino acids như choline-4-hydro xyisoleucine, lysine, tryptophan, histidine, arginine, cystine và tyrosine..
Các chấc ức chế proteinase
Các saponins loại steroid (1.2-1.5%) gồm cả các trigofoenosides từ A đến G, alycones gồm diosgenin,yamogenin , gitogenin, smilagenin, tigogenin, yuccagenin..
Ester loại steroid saponin-peptid như foenugraecin
Các sterols : chất chính là 24xi-ethyl-cholest- 5-en-3beta- ole (65%)
Flavonoids gồm isoorientin, isovitexin, orientin arabinoside, isoorien tin arabinoside, saponaretin, vicenin-1, vicenin-2, vitexin
Trigonelline (coffearin, N-methylbetaine của nicotinic acid, 0.4%)
Tinh dầu dễ bay hơi (0.01%) : hợp chất tạo mùi 3-hydroxy-4, 5-dime thyl-2 (5H)-furanone.
Dược tính  của fenugreek :
Fenugreek và Tiểu đường :
   Hạt fenugreek là một trong số ít dược thảo được WHO và nhiều quốc gia công nhận là có hoạt tính giúp hạ đường trong máu. Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã giúp chứng minh khả năng hạ đường của hạt fenugreek, khi thử trên thú vật và cả khi thử nghiệm lâm sàng nơi người (Phytotherapy Research Số 12-1998).  
Hạt fenugreek, sử dụng đơn độc, hay dùng phối hợp với vanadate, tạo ra một sự bình thường hóa các men glucose-6-phosphata se và fructose-1,6- biphosphatase trong gan và thận của chuột bị tiểu đường. Hoạt tính hạ đường tăng cao hơn khi dùng dưới dạng phối hợp.Hạt fenugreek cũng có hoạt tính giúp bình thường hóa hoạt động của men glyoxalase I nơi gan của chuột bị tiểu đường (Indian Journal of Expe rimental Biology Số 37-1999) Khi cho chuột bình thường và chuột bị gây tiểu đường bằng alloxan dùng fenugreek ở những liều 2 và 8 g/kg hiệu ứng hạ glucose trong máu xẩy ra rất rõ rệt, hiệu ứng này tùy thuộc vào liều sử dụng (Journal of Ethnopharmacology Số 75-2001)
Khi thử trên thỏ, hạt và các dịch chiết khác nhau đều có những hoạt tính hạ đường (thừ bằng test độ dung nạp glucose). Phần chứa nhiều alkaloid là phần có hoạt tính mạnh nhất (Indian Journal of Pharmaceutical Science Số May-June 1987)
Các nghiên cứu thực hiện trên những người tự nguyện đều ghi nhận tác dụng hạ đường của fenugreek, nhất là nơi những bệnh nhân bị tiểu đường, không tùy thuộc vào insulin (NIDDM) : trong một thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát, hoạt tính của 3 chế phẩm từ hạt (hạt tươi, hạt đun sôi và hạt nẩy mầm) được dùng cho 6 người bình thường và 6 bệnh nhân (các bệnh nhân dùng hạt tươi và hạt nẩy mầm), kết quả cho thấy hạt tươi và hạt nẩy mầm làm hạ glucose nơi tất cả 12 người, và hạt đun sôi không có tác dụng (Journal of Food Science and Techno logy Số 33-1996). Một thử nghiệm khác trên 21 bệnh nhân NIDDM ghi nhận liều 15 gram hạt cho dùng một lần trong bữa ăn gây hạ glucose trong máu, và không gây những thay đổi về nồng độ insulin (Nutrition Research  Số 16-1996).. Ngoài ra, cũng trong một thử nghiệm trên 15 bệnh nhân NIDDM, cho dùng hạt fenugreek đã loại chất béo trong 10 ngày, gây hạ glucose trong máu (nhịn ăn đêm trước) và giảm lượng glucose đào thải qua nước tiểu đến 64%. Thữ nghiệm này cho rằng cơ chế tạo ra hạ đường trong máu của fenugreek có thể do hiệu ứng của chất sơ dinh dưỡng (Soluble dietary fiber) trên sự hâp thu glucose nơi ruột và do sự cải thiện hoạt tính ngoại vi của insulin (Nutrition Research Số 10-1990 ; British Journal of Nutri tion Số 97-2007).
Hạt fenugreek cũng làm giảm được một số triệu chứng của tiểu đường như khát nước, đi tiểu nhiều lần, yếu mệt và sụt cân.
Tại các bệnh viện ở Trung Hoa, Saponins tổng cộng trích từ hạt fenugreek đã được dùng phối hợp với sulfonylureas để trị tiểu đường cho thấy sự phối hợp đem lại những kết quả rất tốt, giúp bệnh nhân giảm được sulfonylurea và kiểm soát được mức đường hữu hiệu hơn (Chinese Journal of Integrative Medicine Số 14-2008)
Fenugreek và Cholesterol :
   Một số nghiên cứu thực nghiệm nơi chuột đã chứng minh được hoạt tính làm hạ Cholesterol của fenugreek (Current Science Số 51-1982).
Hạt fenugreek  giúp ngừa gia tăng cholesterol nơi chuột cho ăn các thực phẩm hay một chế độ ăn uống chứa nhiều cholesterol (British Journal of Nutrition Số 69-1993).
Một acid amin đặc biệt, trích từ fenugreek : 4-hydroxyisoleucine 5 có khả năng gây hạ triglycerides trong máu đến 33%, cholesterol tỗng cộng đến 22% và acid béo tự do 14%, cùng với sự tăng tỷ lệ HDL-C/TC đến 39% khi thử trên chuột bọ bị gây cao mỡ trong máu (Bio organic & Medicinal Chemistry Letters Số 15-2006)
Saponin loại steroid, trích từ hạt fenugreek, thử nơi chuột, với liều mỗi ngày 12.5g/ 300g trọng lượng cơ thể làm hạ rõ rệt cholesterol trong huyết tương ở cả chuột bình thường lẫn chuột bị tiểu đường (Steroids Số 60-1995).
Hoạt tính chống sưng cũa Fenugreek :
   Hạt fenugreek đã được nghiên cứu vế tác dụng chống sưng, thử nghiệm trên chuột lang (albino) bị gây viêm bằng các chất gây sưng khác nhau.. Hoạt tính chống sưng được so sánh với sodium salicylate. Dịch chiết từ hạt bằng ether có hoạt tính mạnh nhất (Indian Drugs Số February 1982) Một thử nghiệm khác cũng trên chuột, bị gây đau bằng acid acetic, bằng nhiệt (bị đặt trên đĩa nung nóng), dịch chiết từ hạt fenugreek được so sánh  với pentazocine và diclofenac, kết quả ghi nhận phần tan trong nước của dịch chiết có hoạt tính chống sưng và làm giảm đau khá mạnh.(Asian Pacific Journal of Clinical Nutrition Số 16-2007)
Khả năng kháng sinh :
   Fenugreek đã được thử nghiệm về hoạt tính kháng sinh trên 26 loại vi trùng gây bệnh và cho thấy khả năng kháng sinh khá rộng (Natural Products Science Số 7-2001) : Dầu béo và Phần không bị savon-hóa, trích từ hạt đều có hoạt tính kháng sinh khá mạnh.
Hoạt tính diệt ký sinh trùng Sốt rét :
Dịch chiết bằng các dung môi khác nhau từ lá fenugreek đã được thử nghiệm 'in vitro' trên các chủng ký sinh trùng gây sốt rét Plasmodium falciparum (gồm các chủng còn mẫn cảm và các chủng đã kháng chloro quin). Kết quả cho thấy, dịch chiết bằng ethanol 50% có hoạt tính diệt ký sinh trùng mạnh nhất ở liều IC50=8.75 +/- 0.35 microg ml(-1) đối với plasmodium còn phản ứng với chloroquin và ở liều IC50= 10.25 +/- 0.35 microg ml(-1) đối với plasmodium đã kháng chloroquin. Các dịch chiết bằng butanol, chloroform và ethyl acetate tuy cũng có tác dụng nhưng yếu hơn nhiều (Evidence Based Complementary and Alternative Medi cines Số 2 tháng 5, 2008). Hạt fenugreek có khả năng diệt được ấu trùng (lăng quăng) của muổi đòn sóc Anopheles pharoensis : Nồng độ cao hơn 0.5% có thể diệt toàn bộ số lượng lăng quăng (Egyptian Society of Parasitology Số 36-2006)  
Khả năng chống oxy-hóa :
     Nhiều nghiên cứu trong công nghiệp thực phẩm đã cho thấy hạt fenugreek có thể hữu hiệu khi dùng làm chất chống oxy-hóa để bảo quản thực phẩm. Trong một thử nghiệm, tiềm năng chống oxy-hóa của fenugreek có thể so sánh được với các chất kháng oxy tổng hợp như butylated hydroxyanisole và butylated hydroxytoluene (Meat Science Số 57-2001); khả năng kháng-oxy của hạt fenugreek hoạt động rất tốt khi dùng bảo quản thịt heo xay (cà thịt tươi lẫn thịt đông lạnh).
Khả năng bảo vệ gan chống tác hại của rượu :
Các polyphenols trích từ hạt fenugreek được nghiên cứu về khả năng bảo vệ gan (nơi chuột) chống lại tác hại của rượu : Ruột bị gây hư gan bằng cho uống thenol 6g/kg mỗi ngày liên tục trong 60 ngày  : các triệu chứng hư gan bao gồm các thông số về hoạt động của các men gan, giảm hạ các nhóm sulfohydryl, gia tăng các nhóm carbonyl proteins..Kết quả ghi nhận là fenugreek có hoạt tính tương tự như silymarin (dùng làm đối chứng), giúp cải thiện được các thay đổi bệnh lý ở gan gây ra do rượu (Cell Biology and Toxicology Số 24-2008)
Khả năng ngừa và trị sạn thận :
Hạt fenugreek được sử dụng tại Maroc để ngừa và trị sạn thận. Nghiên cứu tại ĐH Cadi-Aỳyad, Marrakech (Maroc) ghi nhận hiện tượng calci hóa trong thận và lưọng calcium tổng cộng nơi các tế bào thận của chuột được cho uống dịch chiết từ hạt fenugreek thấp hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng. Fenugreek cho thấy tương đối hiệu nghiệm trong tác dụng ngăn ngừa sự tạo sạn calcium oxalate.(Phytothera py Research Số 21-2007)
Fenugreek vả Ung thư :
Trong một thử nghiệm thực hiện tại Đại học UAE (United Arab Emirates) hạt fenugreek cho thấy có hoạt tính bảo vệ được chuột chống lại ung thư vú, gây ra bởi 7,12-dimethylbenz (alpha) anthracene (DMBA). Liều 200 mg/ kg trọng lượng cơ thể ức chế rõ rệt hiện tượng phì vú do DMBA tạo ra, hoạt tính này được giải thích là do gây ra hiệu ứng tế bào được mã hóa để tự diệt ( apoptosis) (Cell Biology International Số 29-2005). Dịch chiết từ hạt fenugreek bằng alcohol, khi thử nghiệm trên chuột bị gây ung thư loại Ehrlich ascites carcinoma (EAC) cho thấy khi chích qua màng phúc toan (trước và sau khi chuột bị cấy tế bào ung thư), fenugreek có thể ức chế sự tăng trưỡng của tế bào ung thư đến 70% (Phytotherapy Research Số 15-2001) 
 
Độc tính và liều lượng khi sử dụng làm thuốc :
Fenugreek đã được sử dụng từ lâu đời để lảm thực phẩm và không gây ra nhựng phản ứng độc hại nào. Các nghiên cứu về độc tính cho thấy , cho chuột thử nghiệm ăn liên tục trong 90 ngày những liều lượng cao từ 2 đến 4 lần các liều dùng trị bệnh, đều không gây tác hại nào trên gan và máu (Phytotherapy Research Số 10-1996). Ngoài ra, khi cho các bệnh nhân tiểu đường dùng hạt theo liều 25 gram/ ngày, trong 24 tuần liên tục, không thấy có sự biến đổi trong các thông số về hoạt động của gan, thận và máu (Nutrition Research Số 16-1996).Tuy nhiên, bệnh nhân tiểu đường, khi dùng thêm fenugreek, cũng cần thông báo cho bác sĩ điều trị để tránh tình trạng mức đưởng hạ quá thấp khi dùng chung với các thuốc trị tiểu đường khác.
Liều thông thường : Hạt tán thành bột là 6 gram/ ngày
Theo Commission E (Đức), hạt fenugreek được chấp nhận làm thuốc giúp ăn ngon miệng dưới dạng trà dược (ngâm 0.5 gram trong 240 ml nước lạnh trong 3 giờ, lược và hâm nóng lại, có thể thêm mật ong khi uống) và dùng bên ngoài trị sưng da dưới dạng bột nhão để đắp.
 
Fenugreek trong Y dược dân gian :
Y dược cổ truyền Trung Hoa : dùng hạt làm dược liệu, gọi là Hồ lô bá. Hạt được xem là có vị đắng, tính ấm có các tác dụng 'ôn thận', tán hàn và chỉ thống. Dùng trị các trường hợp trị tạng thận suy yếu, đau bao tử, đau ruột, sưng chân, thấp gây ra đau khớp khó đi lại.
Tại Hoa Kỳ : Những người di dân đầu tiên đến miền Đất mới, đã dùng fenugreek làm một phương thuốc giúp điều hòa kinh nguyệt. Một hỗn hợp dược thảo có chứa fenugreek rất nổi tiếng trong thế kỷ 19 tại Mỹ là Lydia E Pinkham's Vegetable Compound, được quảng bá như một dược phẩm trị 'female weakness' (khó chịu khi có kinh). Nhà sản xuất đã 'dám' quảng cáo 'đây là một khám phá lớn nhất về y học từ khi ..có lịch sử', gây ra những phản ứng đưa đến việc Chính phủ đặt ra Cơ quan FDA để kiểm soát các 'quảng cáo về trị bệnh'. Hiện nay trên thị trường các chất hổ trợ dinh dưỡng vẫn còn bán Pinkham's Compound nhưng hợp chất..không còn chứa fenugreek.
Tại Ấn độ : Cây non và lá có mùi thơm được dùng làm rau ăn, hạt dùng làm gia vị chế biến cà ri. Cây và lá tán thành bột, trộn nước lảm thành khối nhão để đắp trị phỏng và đắp trên da đầu để giúp chống bạc tóc. Lá được dùng uống trị ăn không tiêu và bệnh về mật, nước sắc toàn cây dùng trị bệnh huyết trắng. Hạt được dùng cho các sản phụ để tăng sữa. Hạt, sau khi rang chín, tán thành bột, được dùng để trị kiết lỵ, và tại vùng Hymalaya, cho trẻ em dùng để trị sán lãi.
 
Fenugreek dùng làm Rau và Gia vị :
Đọt non của cây được băm vụn, trộn chung vào các món salad. Lá được dùng làm rau. Hạt màu vàng có vị hơi đắng, gần như cần tây và phong (maple). Trong ẩm thực, phương pháp sử dụng hạt tốt nhất là rang khô trước khi dùng để làm mất vị đắng (tuy nhiêng nếu rang quá độ, hạt sẽ mất ngon). Hạt cũng có thể để nẩy mầm như giá đậu, mustard và ăn như salad. Hạt nghiền thành bột là một thành phần quan trọng trong bột càri Ấn độ, trong món halva của người Do thái. Hạt khá cứng, nên không thể tán thành bột bằng cách dùng chày và cối, mà phải dùng đến một máy xay chuyên biệt. Dầu fenugreek có vị của maple, có thể dùng thay maple khi nấu nướng.
Đặc tính dinh dưỡng của hạt fenugreek :
100 gram hạt chứa :
- Calories                                   323
- Chất đạm                                23.00 g
- Chất sơ                                   10.07 g
- Chất béo                                 6.41 g
- Calcium                                 176 mg
- Sắt                                          33.53 mg
- Magnesium                            191 mg
- Phosphorus                             296 mg
- Potassium                               770 mg
- Sodium                                   67 mg
- Kẽm                                        2.5 mg
- Đồng                                       1.11 mg
- Manganese                              1.228 mg
- Thiamine                                 0.322 mg
- Riboflavine                             0.366 mg
- Niacin                                     1.640 mg
- Folic acid                                57 mcg
- Vitamin C                               3.00 mg
 
   Fenugreek được dùng trong nhiều món ăn tại nhiều quốc gia khác nhau.
Tại Ấn độ, hạt fenugreek ngoài vai trò trong càri, còn là một trong 3 chất của idli hay dosa (Tamil); là một trong thành phần nguyên liệu để làm loại bánh mì khakhra. Tại Ethiopia và Erythrea, hạt dùng trong bánh mì injera/taita, loại bánh truyền thống của vùng Sừng Phi châu. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, hạt (gọi là ceman) dùng trong bột cay để làm món pastirma. Tại Ai cập, hạt được đun sôi, thêm đường, để món nước uống rất được ưa thích trong những tháng mùa Đông. Tại những nơi khác trong vùng Trung Đông, fenugreek có mặt trong nhiều món kẹo, bánh, chè ngọt. Món bánh ngọt tráng miệng Helba (bánh phủ đường hay si rô maple, rắc thêm hạt fenugreek trên mặt) rất được ưa thích trong các dịp lễ lạc Hồi giáo. Người Do Thái có phong tục ăn fenugreek trong bữa ăn của đêm thứ nhất hay thứ nhì của lễ Rosh Hashana (Năm Mới).
 
Tài liệu sử dụng :
Whole Foods Companion (Dianne Onstad)
PDR for Herbal Medicines
Major Herbs of Ayurveda (Elizabeth Williamson)
Cây có Vị thuốc ở Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ)
The Book of Spices (Frederic Rosengarten Jr)

Fenugreek (Methi)

Trust the good old green leafies to come to the rescue. For millions of diabetics, hope comes in the form of fenugreek (methi) seeds. Scientists at the Pune-based National Centre for Cell Science (NCCS) have prepared a novel formulation from extracts of fenugreek seeds that helps bring down the blood glucose level in the body and hence proves to be a boon for diabetic patients.
Scientists realized that to manage a chronic disease such as diabetes, it was pertinent to test the sustained lowering of blood glucose levels for a long period of time. Their research demonstrated the anti-diabetic potential of the formulation that remained effective for a longer period of time.
The encouraging results have now led a herbal medicine company, Indus Biotech, to venture into the field and take the same extract for a factory-level preparation. Dr Manoj Bhat, scientist at NCCS whose research on the “hypoglycemic effect of a novel dialysed fenugreek seeds extract is sustainable and is mediated, in part, by the activation of hepatic enzymes” is published in ‘Phytotherapy Research’ journal and the British Journal of Pharmacology. It says there is a great scope for plant-derived pharmaceuticals, which can work as an alternative to the current management of hypeglycemia. Diabetes mellitus is an alarming medical problem affecting more than 194 million people. Persisting diabetic conditions often lead to damage of blood vessels, increased risk of coronary artery disease, stroke, blindness, nerve damage, and in extreme situations, may even lead to amputations

TÌM HIỂU VỀ FUCOIDAN




TÌM HIỂU VỀ FUCOIDAN

Ds Lê-văn-Nhân

Sách “ Sức mạnh kỳ diệu của FUCOIDAN” dịch từ bản gốc tiếng Nhật của bác sĩ Daisuke Tachikawa, hình bìa trình bày rất đẹp và giá 20 USD. Có lẽ Nhật là quốc gia nghiên cứu nhiều nhất về sản phâm thiên nhiên chống ung thư như nấm và rong tảo, nên Fucoidan cũng gốc ở Nhật.Hiện nay công ty phát hành bán quảng cáo giá $10/ quyển nếu gọi số 1-888-998-8613.

Theo bệnh viện ung thư nổi tiếng ở miền Đông Hoa-kỳ, Memorial Sloan Kettering Cancer Center,( www. mskcc.org/mskcc/html/69227.cfm) , thì trên mặt hóa học, Fucoidan là lọai chuổi polysaccharide và dồi dào sulfat fucose tìm thấy trên vách tế bào của nhiều lòai tảo nâu nhất là ở vùng biển phía bắc nước Nhật. Đúng ra đây là những chất nhờn bao bọc lá rong. Nghiên cứu in vitro, cho thấy Fucoidan có tính chống u bướu, chống sinh mạch máu mới, kháng siêu vi, điều hòa tác dụng của hệ miển nhiễm. Những tác dụng này do kích thích tế bào sát thủ tự nhiên (natural killer cells) và giảm tăng sinh tế bào với sự tham dự của AP-I. Fucoidan cũng cho thấy có tác dụng bảo vệ thần kinh, bảo vệ bức xạ, và chống lóet nhưng thiếu dữ liệu ở người.

Trong những nghiên cứu khác, fucoidan chứng tỏ họat động chống đông máu, chống huyết khối và có tác dụng cọng thêm khi dùng chung với thuốc chống đông máu.

Mục đích sử dụng:
  • dị ứng
  • nhiễm khuẩn
  • cao huyết áp
  • kích thích hệ miển nhiễm
  • Viêm
  • nhiễm siêu vi

Thành phần:
  • alpha (1,2) hay alpha (1,3)4-O- sulfated-L-Fucose
  • galactose
  • Xylose
  • Glucuronic Acid

Cơ chế tác dụng:
Fucoidan ức chế di căn bằng cách ngăn tế bào u bướu gắn kết với mạng lưới ngòai tế bào. Điều này thực hiện bằng cách ngăn chặn vùng kết nối tế bào với fibronectin, cần thiết cho hổn hợp kết dính. Fucoidan cũng cho thấy cảm ứng “apoptosis” tạm dịch là chương trình tự hủy diệt củatế bào T lòai người kiểu siêu vi (HTLV-1) gây ra ung thư tế bào T người lớn, bằng cách làm mất họat động của NF-kB điều hòa protein chống apoptosis (PubMed có 1 bài tóm tắt trên báo Nutr Cancer 2005;52 (2):189-201 của nhóm Haneji K. và cộng sự, bộ môn siêu vi và ung thư phân tử, đại học y khoa Ryukyus ở Okinawa Nhật-bản). Fucoidan đàn áp AP-I, yếu tố sao chép tham dự vào tăng sinh tế bào và biến dạng tế bào. Nghiên cứu in vitro cho thấy Fucoidan có thể lọai bỏ sinh mạch máu mới do tế bào sarcoma 180 ở chuột nhắt. Fucoidan điều hòa tác dụng miển nhiễm và tăng cường họat động của tế bào sát thủ tự nhiên (NK), đóng vai trò chính trong trung gian tế bào tự hủy. Tác dụng bảo vệ thần kinh của Fucoidan do khả năng dẹp bỏ TNF-a và sản xuất nitric oxide do interdferon-gamma ở tế bào thần kinh não C6 và tính chống oxyt hóa.

Chống chỉ định:
Vì tính chất chống đông máu, fucoidan có thể cọng thêm tác dụng với thuốc chống đông máu đang dùng như warfarin và heparin.

Tác dụng nghịch:
Không có báo cáo tác dụng nghịch do dùng Fucoidan.

Góp ý:
Tác dụng hạ đường và giảm cholesterol có thể do làm chậm hấp thụ những chất này, như khi chúng ta dùng những chất xơ hòa tan khác.

Những tác dụng chống ung thư và tăng họat động hệ miển nhiễm, mặc dầu được chứng minh trong phòng thí nghiệm, nhưng chưa có chứng minh lâm sàng, nên Fucoidan có thể giúp ích cho một số người bệnh ung thư hoặc không có tác dụng. Vì thuốc không có tác dụng nghịch, nên nếu người bệnh muốn thử có thể được trừ khi đang dùng chất chống đông máu, nhưng nên cho gia đình bệnh nhân biết là kết quả không chắc chắn, đừng hy vọng quá nhiều.